Ngành gỗ Việt Nam và cơ hội từ thị trường carbon

Theo các chuyên gia, là một trong các quốc gia hàng đầu về chế biến gỗ và lâm sản, các chính sách của Việt Nam đang hướng đến một nền lâm nghiệp bền vững, đáp ứng các yêu cầu của thị trường, trong đó có vấn đề tài chính xanh và thị trường carbon.

Nhận định được nêu ra tại tọa đàm “Tài chính carbon và cơ hội cho ngành gỗ Việt Nam”(*) diễn ra trong khuôn khổ Hội chợ xuất khẩu đồ gỗ và nội thất - HawaExpo 2024, diễn ra chiều ngày 7.3, tại Trung tâm Hội chợ và Triển lãm Sài Gòn (quận 7, TP. Hồ Chí Minh). Chia sẻ tại tọa đàm, ông Phùng Quốc Mẫn, Phó Chủ tịch HAWA, cho biết năm 2023 kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam chỉ đạt 14,5 tỷ USD so với 15.8 tỷ USD năm 2022. Một trong những thị trường giảm mạnh nhất là EU. Bước qua trong hai tháng đầu năm nay kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam đã có dấu hiệu tăng trưởng tích cựcvà dự kiến năm nay ngành gỗ Việt Nam sẽ phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu 16 tỷ USD.

Tuy nhiên, vị chuyên gia này cho rằng để đạt được mục tiêu trên, các doanh nghiệp ngành gỗ cần hiểu rõ, đáp ứng và mở rộng các thi trường xuất khẩu, tận dụng các cơ hội từ nhiều phía để tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp, trong đó có vấn đề tài chính carbon và thị trường carbon. Bởi vấn đề tài chính xanh và thị trường carbon không xa lạ với các nước phát triển nhưng lại là vấn đề hoàn toàn mới mẻ tại Việt Nam nói chung và ngành gỗ nói riêng.

Năm 2023 là năm đầu tiên Việt Nam nhận được tiền chi trả là 41,2 triệu USD và đã giải ngân toàn bộ để các tỉnh lập kế hoạch chi trả cho các chủ rừng thuộc sáu tỉnh Bắc Trung bộ gồm: Nghệ An, Quảng Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, và Quảng Trị. Ảnh minh họa. Nguồn: Báo điện tử Tổ Quốc

Chia sẻ tại tọa đàm, các diễn giả, chuyên gia đồng tình quan điểm rằng, là một trong các quốc gia hàng đầu về chế biến gỗ và lâm sản, các chính sách của Việt Nam đang hướng đến một nền lâm nghiệp bền vững, đáp ứng các yêu cầu của thị trường, trong đó có vấn đề tài chính xanh và thị trường carbon. Đây là những cơ chế tài chính đóng góp vào công cuộc giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu và giải quyết các thách thức môi trường. Và tại tọa đàm, các diễn giả đã mang đến những thông tin cập nhật nhất về thị trường tín chỉ carbon rừng toàn cầu và Việt Nam.

Với tư cách là một đơn vị tư vấn và giải pháp, ông Trần Đức Trí Quang, Giám đốc dữ liệu FPT IS, đã chia sẻ các bước tiếp cận cũng như vai trò của việc báo cáo phát thải trong quá trình này. Chuyên gia này cho rằng quy trình để tạo ra tín chỉ carbon có ba bước chính: Đánh giá phát thải cơ sở 3 năm trước khi thực hiện dự án; Đánh giá giảm thải và ước tính tín chỉ từ năm 2; Đánh giá tính khả thi, hoàn thành đăng ký, đánh giá độc lập... Trong đó, điểm khởi đầu bắt buộc là giá trị phát thải cơ sở ba năm trước khi thực hiện dự án. Do đó, khi doanh nghiệp cân nhắc lập dự án giảm phát thải, cần thiết thực hiện kiểm kê khí nhà kính và tích lũy dữ liệu trong ba năm làm cơ sở tính toán khả năng giảm phát thải.

Theo ông Quang cần lưu ý việc tính phát thải để làm cơ sở không nhất thiết phải tiến hành cho toàn bộ quy trình. Mà có thể tính trên một công đoạn cụ thể. Ví dụ công đoạn dán/ ép gỗ, hay công đoạn xử lý rác thải từ quá trình sản xuất. Vì vậy dù là thống kê công đoạn nào, nhất thiết có ba việc tuân theo: Quy trình ISO 14064-1:2018; Phạm vi phát thải theo GHG protocol; Chỉ số phát thải cơ bản theo IPCC.

Ngoài ra, với đặc thù là sản phẩm cồng kềnh, việc xử lý sản phẩm hết vòng đời cũng góp phần không nhỏ vào lượng phát thải theo scope 3, category 12. Để đánh giá chính xác lượng phát thải cũng như giảm thải, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản đưa ra khuyến nghị doanh nghiệp nên tiến hành áp dụng phương pháp phân tích vòng đời sản phẩm (LCA) theo tiêu chuẩn ISO 14040, 14044 và 14067. "Một thông tin đáng lưu ý là thông qua việc phân tích LCA, đã có nhiều ví dụ trong việc giảm thiểu và tối ưu chi phí sản xuất, giúp doanh nghiệp đạt được hai mục tiêu giảm phát thải và tối ưu sản xuất một cách đồng thời", ông Quang chia sẻ, đồng thời cho biết FPT IS sở hữu tiềm lực (con người - công nghệ) sẵn sàng đồng hành cùng doanh nghiệp ngành gỗ trong mục tiêu báo cáo phát thải nói riêng và chuyển đổi xanh nói chung.

Theo thống kê của WB hiện nay, thông qua Cơ chế REDD+ (Cơ chế giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng), một số tổ chức quốc tế ký kết với chính quyền địa phương hoặc quốc gia để chi trả tài chính nhằm hạn chế nạn phá rừng và phục hồi rừng. Tổng giá trị của thị trường carbon từ rừng toàn cầu được chi trả năm 2023 đạt xấp xỉ 2 tỷ USD và tất cả đều thông qua Cơ chế REDD+. Trong vòng ba năm gần đây kể từ năm 2020, mỗi năm tổng chi phí chi trả cho tín chỉ hấp thụ carbon rừng đều tăng trưởng 10%.

Giá trung bình mỗi tín chỉ hấp thụ carbon từ rừng hiện đang dao động khoảng từ 1,62 USD/tấn đến 8,99 USD/tấn, nhưng phần lớn được các tổ chức quốc tế chi trả ở mức 5 USD/tấn tín chỉ. Dự kiến năm 2030, tổng giao dịch tín chỉ hấp thụ carbon từ rừng đạt khoảng 20 tỷ USD (gấp 10 lần sao với 2021) và mức chi trả giao động từ khoảng 20 đến 50 USD/tấn.

Hiện nay trên thế giới, tổ chức dẫn đầu triển khai Cơ chế REDD+ là World Bank. Cụ thể, hiện World Bank đang ký kết với 15 quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt Nam), giá chi trả trung bình cho mỗi tấn hấp thụ carbon rừng là 5 USD, trong đó khoảng 95% số tín chỉ thu được sẽ được tính vào Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của quốc gia đó, 5% số tin chỉ còn lại sẽ do World Bank nắm giữ.

Vừa qua, theo ký kết với World Bank, lần đầu tiên Việt Nam chính thức bán 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng với giá 5 USD/tín chỉ, dự kiến thu về 51,5 triệu USD. Và năm 2023 là năm đầu tiên chúng ta nhận được tiền chi trả là 41,2 triệu USD và đã giải ngân toàn bộ để các tỉnh lập kế hoạch chi trả cho các chủ rừng thuộc sáu tỉnh Bắc Trung bộ gồm: Nghệ An, Quảng Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, và Quảng Trị.

Ngoài các lợi ích lâm sản mà rừng đang mang lại cho hoạt động sản xuất, việc thực hiện các biện pháp giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong lâm nghiệp sẽ góp phần quan trọng trong thực hiện mục tiêu giảm phát thải của Việt Nam và tạo nguồn tài chính bổ sung từ các hoạt động mua bán, trao đổi và thương mại tín chỉ carbon tại thị trường carbon trong nước và quốc tế. Ảnh minh họa. Ảnh: lefigaro.fr

Gỗ đóng vai trò hấp thụ và lưu trữ carbon, là một trong số ít ngành sản xuất phát thải khí nhà kính âm so với các ngành khác với cùng mục đích sử dụng như sản xuất đá, mỹ nghệ từ đá, hoặc các ngành sản xuất nguyên vật liệu khác như nhựa, bê tông, thép… nên ngành gỗ có thể tận dụng thay thế cho các nguyên liệu trên trong xây dựng để giảm phát thải carbon.

Đặc biệt, Việt Nam với 14 triệu ha rừng, nếu quản lý bền vững sẽ tạo ra các tín chỉ carbon thông qua hoạt động giảm phát thải khí nhà kính, tăng hấp thụ carbon, tăng nguồn tài chính xanh cho doanh nghiệp, mang đến giá trị lớn cho nền kinh tế. Song để tạo ra được tín chỉ carbon các doanh nghiệp phải thực hành phát triển bền vững (ESG) và bắt buộc phải có báo cáo phát thải và giảm phát thải.

TS. Vũ Tấn Phương - Giám đốc văn phòng Chứng chỉ Rừng Việt Nam (VFCO), cho biết các định hướng chính sách lớn về phát triển lâm nghiệp đến năm 2030 là đạt mục tiêu 1 triệu ha rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững, 100% gỗ, sản phẩm gỗ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước được sử dụng từ nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp, gỗ có chứng chỉ quản lý rừng bền vững và 100% diện tích rừng của tổ chức thực hành quản lý rừng bền vững.

Để thực hiện các mục tiêu trên, Hệ thống Chứng chỉ rừng Quốc gia (VFCS) đã được thành lập theo Quyết định số 1288/QĐ-TTg ngày 1.10.2018. VFCS được Tổ chức chứng chỉ rừng quốc tế (PEFC) công nhận và VFCS được quản lý và vận hành bởi Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững. Kể từ khi chính thức vận hành vào năm 2020, thương hiệu Chứng chỉ rừng Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững, đáp ứng các yêu cầu thị trường, nâng cao thương hiệu gỗ Việt, thúc đẩy thương mại sản phẩm lâm sản và nâng cao năng lực của các bên liên quan.

"Sử dụng nguyên liệu gỗ được chứng nhận sẽ là xu hướng chính trong những năm tới, đó chính là yêu cầu của thị trường. Các lợi ích tài chính trực tiếp từ thương mại carbon có thể được tạo ra, nếu các doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu của thị trường carbon. Ngoài ra, việc sản xuất theo hướng giảm phát thải, carbon thấp sẽ tạo ra các cơ hội về tiếp cận công nghệ sản xuất xanh, nâng cao năng lực. Những lợi ích này sẽ nâng cao giá trị của doanh nghiệp, tạo ra các lợi thế cạnh tranh trong tiếp cận thị trường và thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với các vấn đề bảo vệ môi trường, giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu", ông Phương nhận định.

Chuyên gia này cũng cho rằng để thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia quản lý rừng bền vững, sử dụng nguyên liệu được chứng nhận, phát triển sản xuất theo hướng carbon thấp cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách. Các cơ chế, chính sách cần tập trung vào các khuyến khích tài chính, ưu đãi đầu tư cho xanh hóa sản xuất, sản xuất hàng hóa không gây mất rừng; thúc đẩy tiêu dùng gỗ, sản phẩm gỗ có chứng nhận; các cơ chế giám sát, tạo sự công bằng trong sản xuất và tiêu thụ nguyên liệu gỗ, sản phẩm gỗ được chứng nhận.

Ngoài ra, cần hỗ trợ xây dựng năng lực cho các bên liên quan trong thực hiện quản lý rừng bền vững, các hoạt động giảm phát thải khí nhà kính.

Ông Nguyễn Ngọc Tùng – Giám đốc Quỹ Vinacarbon:

Cơ hội cho các doanh nghiệp ngành gỗ Việt Nam

Tiềm năng tạo tín chỉ carbon từ các doanh nghiệp ngành gỗ để bù đắp cho các ngành công nghiệp khác tại Việt Nam, nhằm giúp quốc gia đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 là rất lớn do cây có tính năng hấp thụ cacbon trong khí quyển và lưu trữ trong gỗ, hoặc có thể thay thế nhiên liệu hóa thạch bằng cách sử dụng như một nguồn năng lượng tái tạo.

Ngoài ra, ở một số lĩnh vực, gỗ có thể được sử dụng thay thế cho các vật liệu phát thải cao khác như bê tông, nhựa... Việt Nam có khoảng hơn 14 triệu ha rừng, trong số đó có gần một nửa là rừng sản xuất. Nếu các doanh nghiệp ngành gỗ nhận thức được việc đầu tư phát triển bền vững, giảm phát thải là xu thế tất yếu và cần thiết phải thực hiện thì nguồn thu của doanh nghiệp không chỉ đến từ các hoạt động chế biến gỗ và lâm sản mà còn từ tín chỉ carbon. Ví dụ, hoạt động trồng rừng gỗ lớn cần đầu tư ban đầu nhiều thời gian và chi phí, tuy nhiên hiệu quả kinh tế từ sản phẩm lâm nghiệp sẽ cao hơn từ 3-4 lần. Ngoài ra tuổi thọ cây kéo dài cũng giúp doanh nghiệp có thêm doanh thu từ tín chỉ carbon.

Hoặc việc thay đổi thói quen xử lý thực bì sau thu hoạch cũng có tiềm năng tạo tín chỉ carbon. Thông thường, thực bì sau khi thu hoạch sẽ được thu gom và đốt bỏ. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng xấu tới môi trường mà còn gây lãng phí tài nguyên. Trong thực tế, thực bì hoàn toàn có thể được sử dụng như một nguồn nguyên liệu đầu vào để sản xuất các sản phẩm như than sinh học dùng trong nông nghiệp, hoặc dùng trong xử lý chất thải...

Đồng thời, đầu tư cho giảm phát thải cho ngành gỗ cũng đồng nghĩa với doanh nghiệp tuân thủ các quy định quốc tế về quản lý và khai thác rừng bền vững, do đó sẽ tăng tính cạnh canh và khả năng thâm nhập vào các thị trường như EU, mang lại giá trị cao hơn cho hàng xuất khẩu của doanh nghiệp.

Thời gian qua, Việt Nam nhận được hơn 41 triệu USD từ Ngân hàng thế giới từ việc chuyển nhượng hơn 10 triệu tín chỉ carbon rừng. Điều đó cho thấy sự quan tâm của các tổ chức nước ngoài cho các dự án carbon nói chung và các dự án carbon từ ngành gỗ nói riêng tại Việt Nam là rất lớn.

__________________

Cách các doanh nghiệp gỗ Nhật Bản tiếp cận và thực thi giải pháp giảm phát thải

Theo ông Trần Đức Trí Quang - Giám đốc Dữ liệu FPT IS thì trong báo cáo 2022 của Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Nhật Bản, nhằm thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, giảm rác thải, giảm năng lượng tiêu thụ có nhấn mạnh việc thúc đẩy công nghệ tạo năng lượng từ Biomass như là mũi nhọn để phát triển bền vững tại địa phương. Bao gồm công nghệ lò đốt, phân bón sinh học, xăng sinh học, hóa chất tăng hiệu suất. Ví dụ gần đây nhất là nhà máy Ashikaga Eco Power, có quy mô 7.000 kWh, giảm được 24.000 tấn CO2 trong một năm, có thể tạo ra số tín chỉ tương đương.

Bên cạnh đó, với việc rác thải nội thất đang tăng lên, việc xử lý lượng rác thải triệu tấn này đang cũng góp phần không nhỏ vào lượng phát thải của doanh nghiệp theo scope 3. Phương pháp phổ biến đang được các doanh nghiệp Nhật Bản tiến hành là hoạt động thu hồi rác thải.

Ngoài ra, Bộ Môi trường Nhật Bản khuyến khích hoạt động thu mua đồ nội thất, xử lý và bán với giá thành thấp hơn. Trong năm 2018, quy mô hoạt động mua bán đồ nội thất đã qua sử dụng đạt mức 61,7 tỉ yên. khoảng 600 triệu USD vào thời điểm đó.

Cũng theo xu hướng này, doanh nghiệp nội thất còn kết hợp cùng chính quyền địa phương để tiến hành hoạt động trao đổi, cho đi đồ nội thất không cần thiết. Thống kê năm 2018 của Bộ Môi trường Nhật Bản cho thấy 18% đồ gia dụng không cần thiết được trao đổi. Ước tính hai hoạt động trên góp phần giảm thiểu khoảng 30% lượng phát thải scope 3 của ngành nội thất.

Ngoài ra còn rất nhiều cách cách doanh nghiệp Nhật Bản đang tiến hành. Nhất là mảng logistics và khâu đóng gói trong sản xuất. Sử dụng Swapable container, giảm chi phí và phát thải logistics. Giảm kích thước đóng gói, không dùng plastics...

Trà My

______________

(*) Tọa đàm do Câu lạc bộ Báo chí phát triển Xanh - GREEN MEDIA HUB phối hợp với Ban tổ chức Hội chợ HAWA EXPO2024 tổ chức.

Nguồn Người Đô Thị: https://nguoidothi.net.vn/nganh-go-viet-nam-va-co-hoi-tu-thi-truong-carbon-42895.html