Người chiến sĩ hải quân năm ấy bây giờ ở đâu?

Tháng 4 năm 1975, trên đảo Côn Đảo có 7.448 tù nhân bị giam giữ. Dường như anh em tù nhân không hề có thông tin gì về Cuộc tổng tiến công mùa Xuân 1975. Trong các ngày 29, 30/4, trên trời Côn Ðảo, tiếng máy bay Mỹ gầm rú liên hồi. Nhiều tù chính trị làm khổ sai nay bị chúng đưa trở lại các phòng giam cấm cố, anh em tù chính trị xuống làm bếp buộc phải vô lại trại giam. Ðịch đóng kín mít tất cả các cửa phòng giam, việc đổ thùng cầu hay tắm mỗi ngày 15 phút bị bãi bỏ!

Lúc này, máy bay Mỹ chở người từ Sài Gòn ra náo loạn bầu trời. Hàng hóa nhu yếu phẩm tăng giá vùn vụt. Máy bay tranh nhau lên xuống sân bay Cỏ Ống, chở quân, tướng Mỹ, ngụy di tản. Ca nô, tàu há mồm cập bãi Cỏ Ống chuyển người ra các tàu Mỹ đang đậu ngoài khơi. 16 giờ 30 phút ngày 29/4, 26 tên cố vấn Mỹ và chư hầu rút chạy.

Ðêm 29/4, chúa đảo lái xe chở vợ con hắn qua khu Bến Ðầm, bí mật xuống ca nô trốn ra tàu di tản, bỏ lại 1.500 sĩ quan cấp dưới, lính, cai tù... đang nhớn nhác, lo sợ. Bọn quyền thế trên đảo còn lại cùng đám gác ngục ác ôn nhất bàn cách đối phó. Chúng quyết định khóa chặt các phòng giam, bố trí canh gác nghiêm ngặt, tổ chức di tản quân lính ra tàu ngoài khơi bằng mọi phương tiện.

Chúng lên phương án thủ tiêu toàn bộ tù chính trị trên đảo bằng lựu đạn vào giờ chót... Nhưng tin Dương Văn Minh đầu hàng, Sài Gòn giải phóng làm cho chúng suy sụp, kinh hoàng tháo chạy. Cuộc di tản hỗn loạn trên đảo kéo dài suốt đêm 30/4...

Nửa đêm ngày 30/4, đại úy ngụy Kiều Văn Dậu, Trưởng Ty thanh niên Nguyễn Văn Ðồng cùng anh Nguyễn Văn Sơn, (anh Sơn là đặc tình mang bí số T31 của ta trong hàng ngũ công chức nhà lao) đã vào trại 7, họ mở khóa cửa phòng 24, Khu H, báo tin: “Tổng thống Dương Văn Minh đã đầu hàng, bọn ác ôn trên đảo đã bỏ chạy hết, bọn quân phạm, lưu manh đang cướp bóc, gây rối loạn trên đảo”.

Nhóm Kiều Văn Dậu yêu cầu “anh em tù chính trị ra giải phóng Côn Ðảo để ổn định trật tự”. Anh em tù yêu cầu đưa radio tới. Sau khi nghe Ðài Tiếng nói Việt Nam phát bản tin “Dương Văn Minh đầu hàng, Sài Gòn hoàn toàn giải phóng...”, anh em sung sướng đến bàng hoàng. Ðó là thời khắc mà những người tử tù Côn Ðảo biết mình đã thoát khỏi “địa ngục trần gian”!

Tù nhân chính trị Khu H lập tức tịch thu chìa khóa Trại 7 ở tay trưởng trại Hai Rồng, chạy đi mở các cửa phòng giam. Anh em tù nhân hò reo vang dội. Nhiều phòng chưa kịp mở khóa, anh em đã bẻ song sắt, phá cửa ra.

Ðến ba giờ sáng ngày 1/5, cả tám khu của Trại giam 7 được giải phóng. Thoát khỏi Chuồng Cọp số 30 khu F, đồng chí Phan Huy Vân (tức Trần Trọng Tân (Hai Tân) - sau này là Ủy viên Trung ương Ðảng, Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Phó Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh) đã đến ngay bệnh xá của Trại 7 gặp đồng chí Trịnh Văn Tư để bàn kế hoạch giải phóng đảo.

Một Ðảo ủy được thành lập do anh Trịnh Văn Tư làm bí thư và đồng chí Hai Tân phó bí thư. Một “Ủy ban Hòa hợp hòa giải dân tộc Côn Sơn” gồm 15 người, nòng cốt là anh em tù chính trị cũng được thành lập. Linh mục Phạm Gia Thụy được mời làm chủ tịch. Trưa 1/5, Tiểu đoàn vũ trang cách mạng đầu tiên của đảo ra đời với số súng đạn thu được từ các trại lính, có cả đại liên 12 ly 7. Lực lượng vũ trang Côn Ðảo đã cứu thoát được hơn mười tù nhân bị cùm xiềng và bị bỏ đói trong Hầm Ðá ở Trại II.

Ðến trưa 1/5, ta hoàn toàn làm chủ Côn Ðảo. Sau khi chiếm cơ quan Vô tuyến viễn thông của địch, Ðảo ủy liên tục liên lạc với đất liền, báo tin “Anh em tù chính trị đã thiết lập chính quyền cách mạng ở Côn Ðảo từ sáng 1/5 và xin ý kiến chỉ đạo”. Nhưng không bắt được liên lạc. Ðảo ủy đang tính đến việc cử người vượt biển về đất liền để bắt liên lạc, thì chiều 2/5, bắt được liên lạc với Thành ủy Sài Gòn.

Ðất liền cho biết: “Ðã nhận được điện và đã báo cho Trung ương Cục, yêu cầu cho biết ngoài đó cần gì để gửi ra!”. Ðồng chí Hai Tân đã khóc vì sung sướng khi nhận điện và đồng chí đã nói: “Côn Ðảo chỉ cần cờ Ðảng, cờ Tổ quốc và ảnh Bác Hồ thôi!”. Ðó là câu nói xúc động nhất trong những ngày giải phóng Côn Ðảo!

Trong lúc đó, tại Vũng Tàu, trung tướng Lê Trọng Tấn đã họp với các tướng lĩnh để bàn một trận hợp đồng quân chủng Hải- Lục- Không quân giải phóng Côn Ðảo. Tối 3/5/1975, anh em báo tin bắt được ba người nhái ngoài biển xâm nhập vào đang giữ ở trụ sở ủy ban. Tới nơi thì hóa ra là các chiến sĩ trinh sát hải quân ta. Thế là đại diện Ban chỉ huy tàu Hải quân được đưa vào đảo. Mọi người ôm nhau mừng rơi nước mắt.

Thì ra, Bộ Tổng tham mưu đã điều tiểu đoàn 445 Bà Rịa và một Trung đoàn của Sư đoàn Sao Vàng xuống hai tàu V.609, V.683 ra giải phóng Côn Ðảo. Tàu xuất phát từ chiều 1/5 tại cảng Rạch Dừa chở theo hàng chục tấn lương thực, thực phẩm, rau xanh, thuốc men cùng với cờ Tổ quốc, ảnh Bác Hồ... của Ðảng bộ thành phố Vũng Tàu gửi tặng Nhân dân và chiến sĩ Côn Ðảo. Nhưng Côn Ðảo đã tự giải phóng!

Sáng 4/5, quân ta từ tàu chiến đổ lên đảo. Một cuộc mít tinh mừng Côn Ðảo giải phóng được tổ chức trọng thể. Hàng nghìn cựu tù mang cờ Tổ quốc, ảnh Bác Hồ, cùng với cư dân trên đảo hò reo vang dội...

Trong hồi ký của mình, đồng chí Trần Trọng Tân kể: “Sau khi công bố việc thành lập chính quyền cách mạng ở Côn Đảo, chính quyền có lệnh cho tất cả công chức ở nguyên vị trí cũ, giữ cho các hoạt động công cộng như điện, nước, y tế được bình thường, giám thị các trại giam phải giao nộp đủ chìa khóa, vũ khí, hồ sơ tài liệu.

Các giám thị lần lượt đến trình diện. Các giám thị cho biết là tỉnh trưởng kiêm quản đốc Lâm Hữu Phương đã chỉ đạo giao cho các giám thị trại trưởng lãnh lựu đạn về để khi có biến cố lớn thì ném vào các phòng giam để tiêu diệt hết tù chính trị trên đảo, mỗi phòng tùy lớn nhỏ từ 1 đến 3 trái. Các chỗ xung yếu đều đặt mìn sẵn để cho nổ khi cần.

Nhưng thấy tỉnh trưởng bỏ chạy nên anh em không làm, nay họ xin nộp hết lựu đạn cho cách mạng. Đã thoát ra khỏi trại giam, nhưng chưa liên lạc được với đất liền, chưa nắm được tình hình hạm đội 7 của Mỹ, chưa biết bọn ác ôn chạy vào rừng, ra các đảo nhỏ rồi sẽ làm gì, phần thì lo bố phòng bảo vệ, phần lo bảo đảm tiếp tế cho mấy ngàn con người trong lúc kho lương thực ngày càng cạn, củi đốt thiếu lại vừa lo công tác nội bộ, nên công việc lãnh đạo mấy ngày này vô cùng bề bộn, căng thẳng.

Sau khi chiếm cơ quan vô tuyến viễn thông, chúng tôi bảo anh em ở đó cứ tiếp tục, chỉ thêm người phụ trách là anh em chính trị. Tôi đánh ngay một bức điện: “Anh em tù chính trị đã thiết lập chính quyền cách mạng ở Côn Đảo từ sáng 1/5. Yêu cầu được sự chỉ đạo của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam”.

Nhưng cả ngày 1/5 không có tin gì. Tối 1/5 chúng tôi tính phải tổ chức một số anh em vượt biển về đất liền liên lạc. Kế hoạch đâu đấy xong, định đến tối 2/5 triển khai thì vào lúc 2 giờ chiều 2/5, có người đến báo với Đảng ủy: “Từ Sài Gòn có người yêu cầu được trực tiếp nói chuyện với đồng chí Hai Tân”. Tôi lên xe Jeep đến ngay đài vô tuyến viễn thông, rủ cả anh Sáu Tín cùng đi (anh Sáu Tín sau này là Thành ủy viên, Bí thư quận ủy Quận 5). Khi cầm máy, tôi hỏi: “Ai đó?”.

Từ đầu kia đường dây ở Sài Gòn có tiếng: “Vũ Hồng, Hai Phong đây. Có phải Hai Tân không?”. Tôi nói: “Đúng Hai Tân đây”, vừa nói vừa mừng đến run lên vì tôi biết anh Vũ Hồng được trao trả về trước, lại là bạn quen cũ từ lúc anh phụ trách công vận ở nội thành Sài Gòn.

Anh Vũ Hồng cho biết: “Đã nhận được tin điện, đã báo cho Trung ương Cục. Yêu cầu cho biết anh em cần gì để gởi ra”. Tôi nói: “Chỉ cần một số cờ Tổ quốc, cờ Đảng và ảnh Bác Hồ thôi”. Anh Vũ Hồng cười: “Tụi mình sẽ gửi ra cho. Hẹn gặp nhau ở Sài Gòn” Tôi và Sáu Tín ôm nhau mừng hết cỡ.

Khoảng 10 giờ đêm 3/5, Ban chỉ huy quân sự đến báo cáo là bắt được ba người nhái và đang giữ ở trụ sở Ủy ban. Chúng tôi lên xe đi ngay. Đến nơi thì anh Lê Câu giới thiệu ngay ba người nhái vừa bắt được là anh em từ tàu chiến ta ngoài khơi thả vào trinh sát. Chúng tôi trao đổi rồi bố trí xuồng máy, cử anh Lê Câu đi cùng anh em trinh sát người nhái ra tàu chiến để gặp Ban chỉ huy rồi đưa đại diện Ban chỉ huy vào gặp chúng tôi tại trụ sở Ủy ban đóng ở dinh tỉnh trưởng cũ.

Trao đổi với nhau xong thì trời đã sáng. Rạng ngày 4/5, bên ngoài trụ sở, anh em chính trị các trại truyền tin nhau kéo về hô vang trời: “Chào mừng quân giải phóng miền Nam”, “Chào mừng Hải quân Việt Nam”, “Bộ đội Cụ Hồ muôn năm!”, “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm”, “Đời đời biết ơn bộ đội và Nhân dân đã cứu sống chúng tôi”, giàn giụa nước mắt!

Sáng 4/5/1975 quân giải phóng từ tàu chiến đổ bộ lên đảo. Đến 3 giờ chiều ngày 4/5 tại sân dinh chúa đảo, bây giờ đã là trụ sở Ủy ban Cách mạng, cử hành lễ mừng Côn Đảo hoàn toàn giải phóng. Hàng ngàn cựu tù mang cờ Mặt trận, cờ Tổ quốc và ảnh Bác Hồ cùng với cư dân trên đảo reo hò vang dội.

Khoảng 5 giờ chiều thì đoàn cựu tù đầu tiên bao gồm các tử tù (án tử hình) và những người bị bệnh nặng xuống tàu về đất liền. Chúng tôi bàn giao toàn bộ trên đảo cho bộ đội. Ủy ban hòa giải hòa hợp dân tộc Côn Đảo giao quyền lại cho Ủy ban quân quản.

Là phái viên chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, vừa là Bí thư Đảng ủy mặt trận Côn Đảo từ đất liền ra, đồng chí Lê Minh Hà (Tám Hà) ký quyết định: Tất cả anh chị em tù chính trị ở Côn Đảo được gọi là “Đoàn chiến sĩ chiến thắng”.

Đảng ủy Mặt trận cũng phê chuẩn Đảng ủy Côn Đảo gồm 10 người trong số 12 người do chúng tôi thành lập đêm 30/4/1975 là Đảng ủy trong Đoàn chiến sĩ chiến thắng, để lãnh đạo đoàn chấp hành mọi chủ trương chính sách của Đảng và các chỉ thị của Đảng ủy Mặt trận Côn Đảo.

Từ đây, công việc của Đảng ủy chúng tôi là lo sắp xếp cho anh chị em lần lượt trở về đất liền. Trong thời gian này, anh em chúng tôi cũng đã xây dựng xong Đài liệt sĩ ở Nghĩa trang Hàng Dương, sửa sang lại phần mộ của cụ Nguyễn An Ninh, đồng chí Lê Hồng Phong, chị Võ Thị Sáu. Chúng tôi trong Đảng ủy, về chuyến tàu chót ngày 16/5/1975 và đến 17/5/1975 thì tàu cập bến Bạch Đằng, với sự đón tiếp đầy tình cảm thân thương của người thân, của đồng bào đồng chí”.

*

Một buổi sáng hè Hà Nội, trên con phố Bùi Thị Xuân, bà cụ bán nước chè chén mái tóc đã bạc cứ thấy một anh bộ đội vận đồ hải quân, quần xanh áo trắng cổ áo viền xanh, mũ lại có mấy dải nơ bay bay, khoác chiếc ba lô cứ đi đi lại lại dọc con phố, như tìm nhà một ai. Bà bán nước nhiều năm con phố này, đã thuộc cảnh mấy ngày nay lũ lượt người này người kia, phần lớn là bộ đội từ chiến trường ra, đi tìm nhà người quen nhiều lắm. Có nhẽ anh bộ đội hải quân này cũng là cảnh này. Bà nở một nụ cười rất tươi, rồi mời anh bộ đội ngồi nghỉ chân lát, uống chén trà nóng.

Đưa chén trà cho anh, bà xởi lởi:

-Có nhẽ chú bộ đội tìm nhà ai mà chưa tìm thấy phải không?

Người chiến sĩ nở nụ cười bẽn lẽn:

-Bà tài thật.Thế nào mà nói đúng quá. Cháu mới đi tàu ra về quê, có lá thư của một bác cán bộ nhờ cháu chuyển cho gia đình. Theo địa chỉ, từ ga cháu đã đi thẳng về đây, đúng phố Bùi Thị Xuân này rồi. Mà tìm thấy không thấy nhà bác Tân này đâu cả, Hà Nội nhà cửa cứ san sát chẳng như quê cháu, tìm khó quá bà ạ.

- Dưng mà có số nhà. Sao chú không theo số nhà mà tìm.

-Có nhẽ bác ấy xa nhà lâu rồi, hoặc lúc ghi xúc động quá, nên ghi là số nhà 88, nhưng cháu lại gõ cửa tìm thì chủ nhà nói ở đây không có ai tên như thế này cả, mà cũng không có ai đi chiến đấu hay công tác ở miền Nam. Cháu đành phải đi dọc con phố tìm vậy. Có mất cả ngày, đi gõ cửa hỏi từng nhà cháu cũng đi...

-Xem nào. Thế ông này quãng bao tuổi, đi miền Nam lâu chưa? Tên tuổi là gì chú cho tôi biết, may ra tôi ở đây bao đời rồi, tôi biết mà chỉ cho chú hay chăng.

Người chiến sĩ lặng đi, rồi thú thật là chỉ biết ông tên là Hai Tân, là cán bộ bị giam cầm nhiều năm ở Côn Đảo, nhìn hom hem lắm, cũng không thể biết là bao tuổi. Xem ra ông ấy cũng là cán bộ làm lớn đấy, vì có mặt trong Ban chỉ huy Côn Đảo mới giải phóng, ra đưa tiễn anh em về đất liền. Cháu là thủy thủ trên con tàu ấy, nên ông viết đôi dòng cho vợ con ở Hà Nội, thiết tha nhờ chuyển cho vợ con hay tin. Ông bảo đã 15 năm xa cách rồi, nghĩa là ông đi Nam cũng đã lâu.

-Thế thư ông ấy gửi cho ai, thư nói điều gì?

-Gửi cho vợ bà ạ. Chỉ nói là “Ba còn sống, đang còn ở Côn Đảo làm nhiệm vụ. Ba sẽ trở về với mẹ con. Chúng ta chiến thắng rồi!”

Bà cụ hàng nước chép miệng:

-Thư đôi dòng thế nhưng thiêng liêng lắm đấy chú nhỉ. Tôi đọc mà cũng ứa nước mắt, chẳng cứ vợ con bác ấy. Bao nhà chỉ trông mong tin tức chồng con đi mặt trận thế này, chẳng biết còn hay mất, nhất là nay chiến thắng rồi, càng trông ngóng hơn... Chú mang thư về cho nhà người ta là phúc đức lắm đấy!

Mà xem nào... Bà ngẩn ra một lát, rồi chỉ vào một khu nhà cách đấy không xa.

- Chú thử vào nhà bà Chức kia xem, cũng người miền Nam tập kết đã lâu, nghe nói chồng cũng đã trở về miền Nam tham gia chiến đấu có nhẽ hơn chục năm nay rồi. Bao năm nay tôi chỉ thấy nhà có bà ấy với 4 đứa con, còn tịnh không một bóng đàn ông nào. Có nhẽ đúng nhà ấy rồi, chú thử vào xem, nếu không đúng thì lại ra đây tôi và chú cùng tìm. Nói thật tôi bán nước ở đấy đã hàng chục năm, cảnh nhà ai tôi đều thấu tỏ...

Đồng chí Trần Trọng Tân, tức Trần Trọng Hoãn, bí danh Ngô Miên, Phan Huy Vân, sinh năm 1926 tại xã Cam Thành, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí bị bắt đày ra Côn Đảo năm 1969, cho đến ngày giải phóng miền Nam. Sau năm 1975, đồng chí lần lượt giữ các chức vụ: Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh; Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương; Phó Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo chỉ dẫn bà cụ, người chiến sĩ tìm vào nhà bà Chức. Một căn phòng nhỏ, đồ đạc tuềnh toàng. Chỉ thấy một chú bé 12, 13 tuổi mặc quần đùi đánh trần đang chơi trong nhà.

Anh bộ đội cất tiếng hỏi: “Em ơi, đây có phải nhà ông Hai Tân không. Có phải mẹ em tên là Chức không?”. Thằng bé nhìn người bộ đội, ngỡ ngàng khi thấy anh hỏi ông Hai Tân, nhưng khi nghe tên bà Chức thì mắt nó sáng lên. Vì đây đúng là tên mẹ nó.

“Vâng ạ. Mẹ cháu tên là Chức ạ” (thật ra mấy ngày nay, cả nhà chú bé, từ mẹ đến các anh chị em đều từng ngày ngóng tin của ba từ miền Nam đưa ra. Ông đi B công tác đã tròn 15 năm mà không có một dòng tin nào, nhất là nay lại đã giải phóng rồi, làm cả nhà hết nước mắt mong chờ...)

Anh bộ đội lại hỏi, như càng dồn dập hơn:

-Có phải em có người cha đi B, bị giặc bắt đi tù ở Côn Đảo không? Có phải mẹ em tên là Chức không? - Chú bé gật đầu, người chiến sĩ mừng vui ôm lấy, bế nó lên rồi trao lá thư của ba nó: “Thư ba em gửi về đây. Ba em vẫn còn sống. Giờ giải phóng rồi, nhưng ông còn đang phải tiếp tục công tác ở Côn Đảo, chưa về thăm mẹ con em được. Các anh là chiến sĩ hải quân được ra đảo đón ba em và các đồng chí bị giặc giam cầm ở đây về đất liền.

Nhưng ba em là chỉ huy, nên sẽ đi chuyến tàu cuối cùng. Còn bọn anh về trước. Biết anh sẽ ra Bắc, ba em viết đôi dòng gửi cho mẹ và các em đây. May quá, anh tìm mãi mới ra nhà em. Thế mẹ em đâu rồi. Đây là lá thư ba, em cầm đọc đi...”.

Dũng cầm vội lá thư, nghiến ngấu đọc những hàng chữ ba viết. Rồi với một niềm sung sướng và phấn khích tột độ, nó cầm lá thư chạy ngay đến cơ quan của mẹ, quên cả cảm ơn chú bộ đội, chạy bổ vào phòng ôm chầm lấy mẹ, nó biết đây là niềm trông chờ lớn nhất của mẹ nó: “Mẹ ơi, ba vẫn còn sống, ba gửi thư từ Côn Đảo về cho mẹ con mình đây này”.

Bà Chức bàng hoàng cầm lá thư, nhận ngay ra nét chữ chồng mình, và đọc xong lá thư, bà xúc động và mừng rỡ. Rất lâu sau, bà mới sực tỉnh. Dắt vội con ra, lấy chiếc xe đạp chở con về nhà tìm anh bộ đội đưa thư. Nhất định bà phải gặp để cảm ơn anh và để hỏi sự tình cho kỹ hơn. Nhưng khi về đến nhà, chỉ thấy một tờ giấy trên bàn: “Tôi phải ra tàu hỏa đi gấp. Xin kính chào gia đình”.

Bà Chức lại thêm một lần lặng người đi. Người chiến sĩ ấy, người đã mang lá thư của ông về cho bà, đúng hơn là mang niềm hạnh phúc từ Côn Đảo, từ miền Nam ra cho mẹ con bà, tiếc thay bà đã không kịp gặp, dù chỉ để nói một lời cảm ơn. Anh đã vội đi, và không để lại một dấu vết gì. Đã 50 năm, chú bé Dũng ngày ấy, nay là Đại tá Trần Trọng Dũng và cả ông Hai Tân, bà Chức vẫn thầm đi tìm lại người chiến sĩ hải quân năm xưa ấy để cảm ơn anh. Nhưng đã không sao tìm ra được. Anh cùng gia đình chỉ mãi mãi thầm cảm ơn...

*

Đêm 18 tháng 5 năm 1975 rời Côn Đảo về đất liền trong vòng tay đồng chí, anh em, ông Trần Trọng Tân đã hồi tưởng: “Đêm ở trên tàu về đất liền, nhìn quanh, anh em ngủ cả, thấy anh em nào cũng xanh xao, gầy còm, áo quần rách tả tơi, thương quá. Tôi thầm mong sao về với Đảng, Đảng cảm thông được hết cuộc chiến đấu trong nhà tù và có chính sách thỏa đáng.

Tôi thì không sao ngủ được, cứ nghĩ đến giờ phút gặp lại bạn bè đồng chí, vợ con, giờ phút tưởng không bao giờ có được. Tôi nhớ, sau khi có quyết định của Trung ương điều động tôi vào Nam cuối năm 1959, vợ tôi nói: “Thương anh nhiều, và lo nhiều lắm, lo anh bị giặc giết chết, lo vào trong đó bị bà nào quyến rũ rồi không chung thủy, lo bị giặc bắt không giữ được trọn vẹn”.

Tôi tính sau hơn 15 năm xa cách, khi gặp vợ tôi, tôi sẽ nói đùa: “Cả ba điều mà bà lo khi ra đi, đến nay thì bà yên tâm! Bà hôn thưởng tôi đi!”.

Nghĩ đến đó tự nhiên thấy phấn khởi tự hào, mặc dù thân xác lúc này của tôi chỉ còn da bọc xương, cân chỉ còn 38 kg.”.

Trương Nguyên Việt

Nguồn Quảng Trị: http://www.baoquangtri.vn/phong-su-ghi-chep/nguoi-chien-si-hai-quan-nam-ay-bay-gio-o-dau/176994.htm