Người dựng mốc biên giới năm 1728

Giữa các hàng bia Tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử giám Thăng Long - Hà Nội, tấm bia về khoa thi năm Ất Mùi, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11, đời vua Lê Dụ Tông (1715), ở phần chữ vinh danh các 'Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân', có ghi rõ tên tuổi: Nguyễn Công Thái, người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì (làng này bây giờ là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà Nội).

Vận chuyển cột mốc. Ảnh: M.Hảo

13 năm sau khi đỗ Tiến sĩ, vào năm Mậu Thân, niên hiệu Bảo Thái thứ 9, vẫn là của vua Lê Dụ Tông, nhưng nắm thực quyền điều hành đất nước lúc này là chúa Trịnh Cương (1728), có tới 3 sự kiện dồn dập đến trong cuộc đời của ông Nghè Nguyễn Công Thái, lúc này 45 tuổi. Đó là: Đương chức Tế tửu Quốc Tử giám (tức: Hiệu trưởng trường Đại học quốc lập hoàng gia Thăng Long), nhân lúc triều đình mở khoa thi “Đông Các”, dành cho đại thần có chữ nghĩa, Nguyễn Công Thái lúc này đã kiêm thêm cả chức “Tri Binh phiên” (tức: Đứng đầu cơ quan lo việc binh bộ ở bên phủ Chúa Trịnh) bèn cũng dự thi. Và trúng cách. Thế là văn võ kiêm toàn. Đồng thời, lại được sách “Sử ký tục biên” khi ấy nhận xét là người “bản tính ngay thẳng, cứng cỏi, ít nói, vào Chính phủ mà không thiên vị ai”. Tất cả những điều này, dẫn đến sự kiện thứ ba của năm 1728: Nguyễn Công Thái được nhận quyết định - cùng quan Thị lang bộ Binh (“Thứ trưởng Bộ Quốc phòng”) Nguyễn Huy Nhuận - đi lên miền địa đầu phía Bắc, “hội khám” cùng các quan chức nhà Thanh, về việc phân định biên giới.

Bấy giờ, giữa triều đình Lê - Trịnh nước ta và triều đình nhà Thanh ở phương Bắc, đang cộm lên vấn đề mỏ Tụ Long, ở châu Vị Xuyên.

Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của nhà bác học Phan Huy Chú ở đầu thế kỷ 19 viết: “Các đèo ải ở Vị Xuyên, Tụ Long... là những nơi chứa góp của cải, nguồn lợi của các đời đều do đó mà sinh ra”.

Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” của Quốc sử quán triều Nguyễn ở giữa thế kỷ 19 viết: Núi Tụ Long ở địa phận xã Tụ Long, châu Vị Xuyên. Khoáng sản trong núi có đá nam châm và đồng đỏ, lại có chỗ lẫn cả ngân sa, nên cũng gọi là “Xưởng Bạc”. Sách này còn cho biết: “Trước đây, nước ta cùng nhà Thanh lập mốc giới hai bên ở núi “Xưởng Chì”. Còn núi Tụ Long của nước ta vẫn bị mất về nhà Thanh. Thổ ti nhà Thanh đặt quan ải để đánh thuế. Đất ở biên giới nước ta bị mất 40 dặm”.

Cuộc đòi lại vùng đất bị mất ấy, mấu chốt ở chỗ mỏ Tụ Long, đã được triều đình Lê - Trịnh ráo riết tiến hành từ trước năm 1728. Kết quả là - như đã chép trong các sách “Nhất thống chí”, “Đông hoa lục”... của Trung Quốc, đời nhà Thanh – tuy vẫn thấy có những lời lẽ của vua Ung Chính nhà Thanh, như: “Căn cớ gì phải so đo 40 dặm đất nhỏ bé ấy”, và: “Chuẩn cho đem đất ấy ban thưởng cho quốc vương (nước Việt) được đời đời giữ lấy”, nhưng thực tế, đến và vào năm 1728, triều đình nhà Thanh đã phải trả lại vùng biên cương Vị Xuyên có mỏ Tụ Long cho nước Việt. Và, một con sông nhỏ, có tên là Đỗ Chú, đã được chọn dùng làm ranh giới.

Sứ bộ Nguyễn Công Thái, được phái lên Vị Xuyên “hội khám” cùng các quan chức nhà Thanh, chính là để xác định trên thực địa, dòng sông ranh giới có tên là Đỗ Chú ấy.

Nó - dòng sông Đỗ Chú này - tất phải ở mạn trên (phía Bắc) mỏ Tụ Long. Có thế thì mới đúng việc trả lại cho nước Việt 40 dặm bị mất. Tuy nhiên, khi vào cuộc “hội khám” thì lũ quan lại nhà Thanh - được sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” chỉ mặt gọi tên đích danh là “bọn Ngạc Nhĩ Thái, Phan Doãn Mẫn, Hằng Dịch Lộc, Nhậm Lan Chi, Ngô Sĩ Côn, Vương Võ Đảng...”, với ý đồ và thủ đoạn - cũng được sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” chép rõ nguyên văn là - “muốn ăn chặn”, đã “chỉ láo” ra một dòng sông khác, ở mạn phía dưới (phía Nam) mỏ Tụ Long, nói rằng đó là sông Đỗ Chú!

Tình hình này, nếu “hội khám” chỉ làm qua loa, dễ dãi, tất dẫn đến chỗ xác nhận trên thực địa: Việc trả lại trên giấy tờ 40 dặm đất biên cương nước Việt bị mất, chỉ là... không. Nhất là việc lấy lại vùng mỏ Tụ Long, bị vô hiệu hóa, có cũng như không.

Nhưng may sao, vị Văn quan 45 tuổi, Hiệu trưởng trường Đại học quốc lập hoàng gia Thăng Long, giỏi chữ nghĩa nhưng chân yếu, tay mềm, biết lý thuyết binh bộ quốc phòng, nhưng không thạo gân cốt bôn ba, đã chẳng hề tắc trách. Nguyễn Công Thái đã cùng người cộng sự - Tả Thị lang Nguyễn Huy Nhuận, quyết tâm dấn thân vào cuộc mạo hiểm: Đi tìm dòng sông Đỗ Chú thật.

Chắc chắn là phải có nhiều công phu và kỹ thuật, cũng như phải trải qua nhiều gian khó, thậm chí nguy hại. Nhưng, chỉ thấy sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” (quyển 35, tờ 5) chép gọn: “Nguyễn Công Thái biết là có gian trá, đã xông pha lăn lộn ở những nơi lam chướng hiểm trở, đi trải qua các vùng “Xưởng Bạc”, “Xưởng Đồng”, nhận ra đúng chỗ sông Đỗ Chú”.

Điều này có nghĩa là Nguyễn Công Thái đã thực sự đi ngược nữa lên mạn trên vùng núi có mỏ Tụ Long, để cho miền đất biên cương giàu khoáng sản này được xác định là nằm hẳn ở mạn Nam sông Đỗ Chú, bên trong lãnh thổ Tổ quốc. Đấy là giá trị và kết quả của cuộc “hội khám” năm 1728. Không những thế, Tế tửu Quốc Tử giám Nguyễn Công Thái còn biết quyết liệt và sáng tạo vào thời gian đầu thế kỷ 18 ấy: “Dựng bia ở nơi giáp giới ngay” - như lời sử cũ chép nguyên văn.

Vậy là, một tấm bia đá, với lời văn bia chắc nịch, hào hùng, đã xuất hiện vững chãi, gần 300 năm nay, trên biên giới phía Bắc đất nước: “Lấy mốc sông Đỗ Chú làm căn cứ, ngày 18 tháng Chín năm Ung Chính thứ 6 (1728) chúng ta là: Nguyễn Huy Nhuận, Tả Thị lang bộ Binh và Nguyễn Công Thái, Tế tửu Quốc Tử giám, được triều đình ủy sai, vâng theo chỉ dụ, lập bia đá này”.

Hơn trăm năm sau, vua Tự Đức nhà Nguyễn, nhân đọc lại sử cũ về năm 1728, đã cầm bút, viết lời “châu phê” rằng: “Đạo bầy tôi phải như thế”! Và những dịch giả ở Viện Sử học, lại trăm năm sau nữa, làm chú thích cho đoạn “ngự bút” này, đã viết: “Lời phê này, có ý khen Nguyễn Công Thái, chịu khó lặn lội tìm được đúng chỗ sông Đỗ Chú, để dựng mốc biên giới ở đấy”.

GS Lê Văn Lan

Nguồn Biên Phòng: http://bienphong.com.vn/nguoi-dung-moc-bien-gioi-nam-1728/