Nguyễn Văn Nhương - Anh hùng diệt Mỹ

Gần 30 năm trong quân ngũ, có 6 năm trực tiếp chiến đấu ở chiến trường miền Nam, ông đã tham gia 175 trận đánh, bắn rơi 13 máy bay, diệt 2 xe tăng và 54 tên Mỹ-ngụy. Quá trình chiến đấu, ông luôn thể hiện ý chí kiên trung, mưu trí, linh hoạt, dám nghĩ, dám đánh, không sợ hy sinh, kể cả lúc chiến đấu bị thương vẫn xung phong ở lại để tiếp tục chiến đấu, động viên đồng chí, đồng đội kiên quyết chiến đấu giành thắng lợi. Ông là Nguyễn Văn Nhương, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, quê ở xã Cầu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa, hiện trú ở tổ 8, phường Diên Hồng, TP Pleiku, Gia Lai.

Anh hùng Nguyễn Văn Nhương.

Anh hùng Nguyễn Văn Nhương.

Sinh ra ở một vùng quê giàu truyền thống cách mạng, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chứng kiến cảnh tàn phá của bom đạn Mỹ, lòng căm thù giặc sâu sắc đã thôi thúc ông tình nguyện lên đường đánh Mỹ khi mới 17 tuổi.

Sau 3 tháng huấn luyện, ông được biên chế về Đại đội súng máy 12,7 ly, Trung đoàn 95C, hoạt động từ Ninh Bình vào tới miền Tây Nam bộ và trên đất bạn Cam-pu-chia. Suốt chặng đường dài chiến đấu, ông đã cùng đoàn quân vừa hành quân, vừa chiến đấu trên nhiều mặt trận ác liệt, từ Khu 4 đến miền Đông Nam bộ và trên đất bạn Cam-pu-chia, ông từng được đồng đội đặt cho cái tên "Người chiến sỹ kiên trung".

Tâm sự với tôi, Đại tá Vũ Quang Chiêm, nguyên Chánh Văn phòng Quân đoàn 4, là thủ trưởng trực tiếp của ông từ những ngày đầu trong quân ngũ và suốt cả quá trình chiến đấu cho biết: "Đồng chí Nhương trong cuộc sống hằng ngày là một con người hiền lành, chất phác, nhưng trong chiến đấu lại là một con người quả cảm, mưu trí, quyết đoán, gan dạ, kiên trung, không sợ hy sinh, gian khổ, thành tích trong chiến đấu của đồng chí, tôi thật khâm phục. Đồng chí Nhương hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".

Trong ký ức của ông, 175 trận đánh cứ dội về. Nhưng có lẽ, đậm sâu nhất, thể hiện sự dũng cảm, mưu trí nhất đã phác họa chân dung của vị anh hùng hôm nay là trận đánh gần 40 ngày đêm nơi túi bom lửa đạn của chiến trường Quảng Trị, trận đánh sân bay Tà Cơn từ ngày 22-1-1968 đến 30-3-1968. Nhiệm vụ của đơn vị ông cùng phân đội DKZ và bộ binh được giao áp sát căn cứ sở chỉ huy và khu hậu cần của Lữ đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ, triệt phá sân bay, cắt đứt đường tiếp tế hàng không của địch.

Nhận nhiệm vụ, ông đã cùng đồng đội chiến đấu dồn bọn địch tới đường nguy khốn, vì vậy, chúng dùng B52 và các loại máy bay chiến đấu, xe tăng, xe bọc thép liên tục phản kích vào các trận địa của ta. Để bắn có hiệu quả cao nhất và tiết kiệm đạn, ông đã mạnh dạn đề nghị chỉ huy đưa khẩu đội 12,7 ly áp sát hàng rào địch vừa bắn máy bay lên xuống, vừa đánh bộ binh địch đã làm cho chúng khốn đốn, mất tinh thần chiến đấu.

Phát hiện ra trận địa của ta, bọn địch đã tập trung hỏa lực, huy động máy bay thả bom. Một quả bom rơi sát trận địa làm cho một số đồng chí trong khẩu đội của ông bị thương. Bản thân ông cũng bị thương nặng nhưng vẫn cố bám trận địa. Lúc này, cơ số đạn còn rất ít, trong lúc đó máy bay địch lại liên tục quần thảo, rải bom, bắn phá. Ông đã nảy ra sáng kiến tháo rời băng đạn để không bắn liên thanh, mà bắn tỉa phát một, tiết kiệm đạn. Với số đạn ít ỏi, một mình ông đã bắn rơi 3 chiếc máy bay của địch rồi tự xé áo băng vết thương cho mình và đồng đội để tiếp tục chiến đấu.

Trong chiến dịch này, ông cùng với đồng đội đã bắn rơi 17 máy bay, diệt nhiều tên địch, trong đó, ông đã bắn rơi 7 chiếc máy bay. Sau trận chiến đấu này, toàn đơn vị đã phát động học tập, noi gương sự mưu trí, dũng cảm của ông.

Ông còn kể một cách say mê về trận đánh Sở chỉ huy Chi khu Đắc Lập - Đắc Min ngày 23-8-1968. Khẩu đội súng máy do ông chỉ huy đi cùng bộ binh, được giao nhiệm vụ trực tiếp yểm trợ cho bộ binh đánh trận mở cửa. Trong lúc chỉ huy chiến đấu hầm bị bom đánh sập, ông bị vùi dưới đất, khi được đồng đội cứu lên đưa về tuyến sau cấp cứu, nhưng trên cương vị người chỉ huy, ông kiên quyết xin ở lại để chỉ huy đơn vị tiếp tục chiến đấu và động viên đồng đội.

Trận chiến đấu này, đơn vị ông đã khống chế được đường không, buộc Tổng thống Thiệu phải đáp máy bay từ Sài Gòn ra trấn an đồng bọn. Tuy nhiên, trước lưới lửa phòng không dày đặc của ta, làm cho máy bay của Tổng thống Thiệu không thể hạ cánh, phải quay lại Sài Gòn. Tổng kết chiến công chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên, đơn vị ông bắn rơi 5 máy bay, trong đó, riêng ông bắn rơi 3 chiếc và diệt nhiều tên địch.

Anh hùng Nguyễn Văn Nhương (thứ nhất từ trái sang) nói chuyện truyền thống cùng thế hệ trẻ. Ảnh: Xuân Hoàng.

Cuối năm 1968, đơn vị do ông chỉ huy lại được giao nhiệm vụ chi viện trực tiếp cho bộ binh tiến công tiêu diệt Tiểu đoàn Không vận Mỹ ở Sóc Con Trăng (14-11-1968) đã diệt 70 xe cơ giới của Mỹ và tấn công tiêu diệt các Tiểu đoàn quân Mỹ ở Đồng Pan, Lộc Ninh (22-5-1969). Chiến dịch Xuân - Hè - Thu năm 1969, đơn vị ông đã bắn rơi 13 máy bay, trong đó, ông bắn rơi tại chỗ 1 chiếc. Sau chiến dịch ở Sóc Con Trăng, đơn vị ông được điều sang chiến trường Đông Bắc Cam-pu-chia.

Ngày 23-2-1971, ở Đầm Be, quân địch dùng sức mạnh phối hợp xe tăng, máy bay, bộ binh và các loại hỏa lực hòng san bằng trận địa của ta, ông đã cùng với đồng đội mưu trí tác chiến bằng cách sử dụng súng 12,7 ly, súng bộ binh, B40, lựu đạn để chiến đấu chống trả các đợt phản công của địch. Khi xe tăng địch tiến gần, ông đã dũng cảm ôm mìn chống tăng bò ra khỏi hầm bắn cháy xe tăng chạy trước, rồi quay lại hầm.

Lúc này, trong hầm chỉ còn lại duy nhất một quả đạn B40, ông đã sử dụng bắn cháy chiếc xe tăng thứ 2 rồi sử dụng súng bộ binh, lựu đạn chiến đấu tiêu diệt bộ binh địch. Thêm một lần nữa, hầm bị bom đạn Mỹ đánh sập và vùi lấp, ông được đồng đội cứu lên, phải mất hàng giờ mới tỉnh lại, nhưng ông vẫn không rời vị trí chiến đấu. Trong chiến dịch phản công này, toàn đơn vị bắn rơi 19 máy bay các loại và diệt 2 xe tăng địch, trong đó, ông bắn rơi 2 máy bay, diệt 2 xe tăng và nhiều tên địch...

Cuối năm 1972, ông rời chiến trường ra Bắc học tập. Tốt nghiệp, ông được điều về làm Chính trị viên Tiểu đoàn 22, Pháo cao xạ Quân khu 4. Sau đó, ông được điều động tăng cường vào Tây Nguyên giữ nhiều cương vị quan trọng. Gần 30 năm binh nghiệp, ông luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, chức trách được giao. Ông luôn tâm niệm: "Tuổi cao tâm sáng gương trong" nên trong cuộc sống đời thường hiện nay, ông luôn gương mẫu đi đầu trong các phong trào, được bà con nơi cư trú hết sức nể phục.

Ông Nguyễn Văn Nhương đã được tặng thưởng 11 Huân chương Chiến công Giải phóng, 2 Huân chương Chiến sĩ Giải phóng, 5 Huy hiệu Chiến sĩ diệt máy bay; Huy hiệu Chiến sĩ diệt xe tăng; Huy hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ - ngụy; Huy hiệu Chiến sĩ thi đua Quyết thắng; 5 năm liền là Chiến sĩ thi đua cấp Trung đoàn và Sư đoàn; 2 lần được đi dự Đại hội Chiến sĩ thi đua anh hùng toàn miền Nam. Ngày 28-5-2010, ông vinh dự được Chủ tịch nước tuyên dương danh hiệu cao quý "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".

Xuân Hoàng

Nguồn Biên Phòng: http://bienphong.com.vn/nguyen-van-nhuong-anh-hung-diet-my/