Nhập dầu thô từ Azerbaijan - lời giải cho bài toán tìm nguồn nguyên liệu thay thế

Khi lượng dầu khai thác từ mỏ Bạch Hổ ngày càng cạn dần, Nhà máy lọc dầu Dung Quất đứng trước bài toán phải tìm nguồn nguyên liệu thay thế. Và nhập dầu thô Azeri từ Azerbaijan là một giải pháp khả quan bảo đảm hài hòa cả về mặt kinh tế và khoa học kỹ thuật cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR).

Nhà máy lọc dầu Dung Quất

Dầu Azeri chất lượng “top” đầu thế giới

Tính phù hợp trên phương diện kỹ thuật là yếu tố đầu tiên và cũng là quan trọng nhất để dầu Azeri được BSR lựa chọn. Nhà máy lọc dầu (NMLD) Dung Quất được xây dựng với cấu hình phù hợp với nguồn dầu thô được khai thác từ mỏ Bạch Hổ. Chứa ít chất lưu huỳnh, nguy cơ ăn mòn bên trong đường ống/thiết bị rất thấp nên dầu thô Bạch Hổ được gọi là “dầu ngọt”, là một trong những nguồn dầu thô tốt nhất thế giới. Tuy nhiên, sau hơn 30 năm khai thác thương mại, trữ lượng của mỏ Bạch Hổ giảm mạnh. Vì thế, nâng cấp, mở rộng NMLD Dung Quất và đi tìm nguồn nguyên liệu thay thế là đòi hòi tất yếu, tránh đưa nhà máy vào “ngõ cụt” thiếu hụt nguyên liệu sản xuất. Xét trên phương diện kỹ thuật, dầu Azeri từ Azerbaijan là một trong số ít loại dầu ngọt, nhẹ, tương đồng dầu Bạch Hổ.

Nhiều năm qua, BSR đã nghiên cứu lựa chọn các loại dầu thô thay thế dầu Bạch Hổ để đưa vào chế biến. Việc đánh giá khả năng chế biến các loại dầu thô tại NMLD Dung Quất cũng được thực hiện bằng cách xem xét chất lượng dầu thô thể hiện qua bảng phân tích chất lượng dầu (Crude Assay) để đánh giá độ phù hợp với cấu hình công nghệ của nhà máy. Đó cũng là cách mà các NMLD khác trên thế giới áp dụng.

Từ các bảng phân tích tính chất dầu thô được cung cấp bởi các nhà sản xuất, buôn bán dầu như PVOil, BP, Shell, Chevron, Total, Exxon, Petronas…, BSR đã sơ loại các loại dầu thô có thể xem xét đánh giá trong giới hạn vận hành của nhà máy. Đó là điểm chảy thấp hơn 38 độ C; hàm lượng lưu huỳnh thấp hơn 0,47 wt.%. Sau đó, những loại dầu đã vượt qua bước sơ loại sẽ được xử lý cập nhật sản lượng các phân đoạn, thành phần kim loại, hàm lượng conradson carbon, tính chất các phân đoạn, để phản ánh đúng tính chất của dầu thô thương mại có trên thị trường. Trên cơ sở các dữ liệu thu thập được, BSR đã xây dựng được danh sách các loại dầu thô có thể đưa vào chế biến. Nếu như năm 2012 chỉ có 48 loại dầu thô có khả năng chế biến tại nhà máy thì hiện nay đã lên tới 75 loại.

Đồng thời BSR cũng đã thiết lập được tỷ lệ phối trộn của từng nhóm dầu thô làm cơ sở cho việc lập kế hoạch sản xuất, mua dầu, lập kế hoạch nhập dầu, xuất kho phù hợp, bảo đảm cho nhà máy vận hành ổn định ở công suất cao. Trải qua hàng loạt công đoạn đã đi đến kết luận dầu Azeri từ Azerbaijan là phù hợp nhất cho cấu hình của NMLD Dung Quất.

Kiến nghị tháo gỡ khó khăn

NMLD Dung Quất đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi với nguồn thu từ NMLD Dung Quất luôn chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách toàn tỉnh. Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi Lê Viết Chữ khẳng định: "20 năm qua, đóng góp của BSR cho sự phát triển chung của tỉnh Quảng Ngãi là rất lớn. BSR đã giúp Quảng Ngãi chuyển mình từ một tỉnh thuần nông thành một tỉnh công nghiệp".

Kỹ sư làm việc tại NMLD Dung Quất.

Với vai trò quan trọng như vậy, chính quyền tỉnh Quảng Ngãi luôn có sự quan tâm sâu sát tới tình hình sản xuất, kinh doanh của NMLD Dung Quất. Tại Công văn 6675/UBND - CNXD do Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Trần Ngọc Căng ký gửi Chính phủ liên quan đến những khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động đầu tư kinh doanh của NMLD Dung Quất, có kiến nghị về việc “xem xét chấp thuận điều chỉnh mức thuế suất nhập khẩu dầu thô Azeri từ Azerbaijan nói riêng và các loại dầu thô nhập khẩu khác nói chung cho NMLD Dung Quất (bao gồm NMLD Dung Quất sau khi được nâng cấp, mở rộng) tương tự như NMLD Nghi Sơn là 0%”.

Căn nguyên dẫn tới kiến nghị nói trên vì dầu thô Azeri chưa được hưởng ưu đãi thương mại từ nguyên tắc tối huệ quốc (Most favoured nation - MFN) nên vẫn bị đánh thuế 5% khi nhập khẩu, cho dù Việt Nam và Azerbaijan có quan hệ ngoại giao truyền thống và thương mại hai bên rất phát triển.

Nguyên tắc tối huệ quốc làmột trong những quy chế pháp lý quan trọng trong thương mại quốc tế hiện đại. Nguyên tắc này được hiểu là chính sách không phân biệt đối xử trong thương mại, nó đề ra cho tất cả các đối tác thương mại quy chế hải quan và thuế quan như nhau.

Xét về yếu tố lịch sử, Azerbaijan cũng là đối tác truyền thống của BSR cũng như các công ty hoạt động trong ngành dầu khí của nước ta. Đối tác cung cấp dầu Azeri cho BSR là SOCAR Trading S.A- một công ty con của Công ty Dầu khí quốc gia Azerbaijan. Năm 2016 sản lượng kinh doanh dầu thô của SOCAR đạt 298 triệu thùng, trong đó có 158 triệu thùng dầu Azeri, tương đương khoảng 23 triệu tấn dầu Azeri /năm.

Với sản lượng cao, chất lượng ổn định, tỷ lệ phối trộn cao lên tới 70% khả năng thay thế được dầu Bạch Hổ và độ linh động trong điều kiện bốc dầu, thương mại, do đó dầu thô Azeri được đánh giá là loại dầu chiến lược cho NMLD Dung Quất trước và sau nâng cấp mở rộng. Đến hết năm 2017, khối lượng dầu thô Azeri do đối tác cung cấp cho NMLD Dung Quất đạt khoảng 10,6 triệu thùng.

Như vậy, có thể thấy dầu Azeri từ Azerbaijan là loại dầu phù hợp nhất để NMLD Dung Quất nhập khẩu chứ không phải nguồn dầu thô từ các nơi khác. Kiến nghị của Tỉnh Quảng Ngãi mong muốn Chính phủ xem xét việc điều chỉnh mức thuế suất nhập khẩu như với dầu thô được nhập với các nước được áp dụng nguyên tắc tối huệ quốc không chỉ tạo thuận lợi cho việc nhập khẩu dầu thô và hoạt động sản xuất kinh doanh của NMLD Dung Quất mà còn tạo điều kiện cho quan hệ ngoại giao truyền thống và thương mại của Việt Nam và Azerbaijan ngày càng phát triển.

THANH HIẾU

Nguồn Nhân Dân: http://nhandan.com.vn/bandoc/item/38205502-nhap-dau-tho-tu-azerbaijan-loi-giai-cho-bai-toan-tim-nguon-nguyen-lieu-thay-the.html