Nhiều tiềm năng nhưng Việt Nam mới bước đầu tiếp cận thị trường Halal

Theo Phó giáo sư, tiến sỹ Chu Thanh Tuấn, có tới 40% các địa phương Việt Nam chưa có sản phẩm xuất khẩu có chứng nhận Halal hay nói cách khác, Việt Nam mới chỉ bước đầu tiếp cận thị trường Halal.

Các đại biểu xem sản phẩm được trưng bày tại Hội nghị 'Tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển ngành Halal Việt Nam.' (Ảnh: TTXVN phát)

Phó giáo sư, tiến sỹ Chu Thanh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo cho biết Việt Nam có khoảng 20 mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Halal - ngành công nghiệp cung cấp các sản phẩm và dịch vụ hợp chuẩn cho người Hồi giáo - và đây là một con số rất thấp.

Theo Phó giáo sư, tiến sỹ Chu Thanh Tuấn, có tới 40% các địa phương Việt Nam chưa có sản phẩm xuất khẩu có chứng nhận Halal hay nói cách khác, Việt Nam mới chỉ bước đầu tiếp cận thị trường Halal.

Thông tin này được đưa ra tại Hội thảo khoa học "Văn hóa Islam và triển vọng phát triển ngành Halal ở Việt Nam" do Viện Nghiên cứu châu Phi và Trung Đông, Viện Nghiên cứu Tôn giáo (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) phối hợp tổ chức chiều 14/8, tại Hà Nội.

Phát biểu tại hội thảo, Phó giáo sư, tiến sỹ Lê Phước Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu châu Phi và Trung Đông nhấn mạnh văn hóa Hồi giáo (Islam) có nhiều đặc trưng trong đời sống xã hội cũng như đời sống tôn giáo. Do đó, muốn xây dựng mối quan hệ bền vững trong phát triển kinh tế-xã hội với thế giới Islam, cần tìm hiểu về văn hóa Islam, hiểu về những phong tục, tập quán, những điều kiêng kị trong cuộc sống của cộng đồng Hồi giáo trên thế giới và Việt Nam. Điều này sẽ thúc đẩy quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực giữa Việt Nam và các nước Islam.

Theo Phó giáo sư, tiến sỹ Lê Phước Minh, việc tổ chức hội thảo không chỉ góp phần phổ biến kiến thức về văn hóa Islam bao gồm phong tục, tập quán, những điều kiêng kị trong cuộc sống của cộng đồng Hồi giáo trên thế giới và ở Việt Nam, mà còn nâng cao nhận thức và hiểu biết về ngành Halal, một ngành kinh tế quan trọng, cho các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp và người dân Việt Nam.

Điều này góp phần quan trọng, mở ra cơ hội để Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị Halal toàn cầu và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, thu hút du khách Hồi giáo và nguồn vốn đầu tư lớn từ các quốc gia Hồi giáo trên thế giới, đồng thời góp phần thắt chặt quan hệ hợp tác của Việt Nam với 57 quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC).

Theo Phó giáo sư, tiến sỹ Chu Thanh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo, hiện nay, cộng đồng Hồi giáo (Islam) ở Việt Nam có khoảng hơn 32.000 tín đồ tập trung ở 14 tỉnh, thành phố.

Du lịch Việt Nam được coi là một ngành kinh tế mũi nhọn vì có tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú. Giai đoạn từ năm 2015-2019, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đã tăng 2,3 lần, từ 7,9 triệu lượt lên 18 triệu lượt, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 22,7%/năm, song lượng du khách Islam/Hồi giáo chiếm tỷ lệ không đáng kể.

Trong khi đó, các nước láng giềng của Việt Nam như Thái Lan và Singapore rất thành công trong việc thu hút du khách đến từ các quốc gia (khách hạng sang), có khả năng chi tiêu cao và thời gian lưu trú dài. Do vậy, việc hiểu về văn hóa Islam sẽ giúp Việt Nam nắm bắt được tâm lý, thói quen, thị hiếu, lễ nghi, tôn giáo… của người theo đạo Hồi, để từ đó khai mở thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa Halal toàn cầu cũng như thu hút nhiều hơn du khách và nhà đầu tư Islam đến Việt Nam, góp phần bứt phá tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững trong bối cảnh mới.

Các đại biểu tham dự Hội thảo cho rằng Việt Nam với nhiều lợi thế về nông nghiệp, thực phẩm, du lịch, dệt may… và là một nước hội nhập sâu với việc tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) như: Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), tuy nhiên mức độ và hiệu quả tham gia thị trường Halal toàn cầu chưa tương xứng với tiềm năng của Việt Nam.

Tại Việt Nam, từ giữa năm 2021, Viện Nghiên cứu châu Phi và Trung Đông là đơn vị đầu tiên trong khối cơ quan nhà nước chủ động lập nhóm nghiên cứu đặc nhiệm mang lên Vietnam Halal Center of Excelence (Vietnam Halal COE). Từ đó đến nay, nỗ lực và thành quả của nhóm đã và đang được ghi nhận ở Đại sứ quán các nước châu Phi, Trung Đông, Bộ Ngoại giao và các cơ quan, bộ, ngành khác.

Hiện nay, Viện Nghiên cứu châu Phi và Trung Đông đang tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu, tận dụng lực lượng cán bộ của các viện nghiên cứu khu vực, quốc tế trong việc nghiên cứu, tư vấn, triển khai nhằm góp phần xây dựng và phát triển ngành Halal tại Việt Nam./.

Lý Thanh Hương (TTXVN/Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: http://www.vietnamplus.vn/nhieu-tiem-nang-nhung-viet-nam-moi-buoc-dau-tiep-can-thi-truong-halal/889041.vnp