Nỗ lực giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh - Bài 1: Mất cân bằng giới tính khi sinh - những hệ lụy khó lường

Số liệu thống kê về tỷ số giới tính khi sinh cho thấy, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam xuất hiện muộn nhưng tốc độ gia tăng nhanh hơn so với một số nước châu Á.

Các chuyên gia về dân số đều khẳng định: Mất cân bằng giới tính khi sinh tăng cao sẽ dẫn đến những hệ lụy khó lường về mặt xã hội, kinh tế, thậm chí cả an ninh chính trị... Điều này đòi hỏi, cần có những can thiệp kịp thời để duy trì tỷ số giới tính khi sinh ở mức cân bằng tự nhiên.

Tỉ số mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam ở mức cao. Ảnh minh họa: Dương Ngọc/TTXVN

Tỉ số mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam ở mức cao. Ảnh minh họa: Dương Ngọc/TTXVN

Bài 1: Mất cân bằng giới tính khi sinh dẫn đến nhiều hệ lụy

Theo báo cáo dân số thế giới năm 2020 do Quỹ Dân số Liên hợp quốc công bố (UNFPA), Việt Nam là một trong 3 quốc gia đang có tỉ số mất cân bằng giới tính khi sinh cao nhất. Cụ thể, ở Việt Nam là 111.5 bé trai/100 bé gái sinh ra sống (2019) chỉ đứng sau Trung Quốc 111.9/100 và Ấn Độ 111.6/100. Trong khi, tỷ số giới tính khi sinh ở mức tự nhiên chỉ khoảng 104 -106/100. Về lâu dài, mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ ảnh hưởng đến sự cân bằng giới tính tự nhiên, đe dọa sự ổn định dân số của quốc gia và thế giới; dẫn tới nhiều hệ lụy.

Diễn biến phức tạp

Theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế) Phạm Vũ Hoàng, mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam xuất hiện muộn nhưng tốc độ gia tăng nhanh hơn so với một số nước châu Á. Việt Nam chính thức mất cân bằng giới tính khi sinh từ năm 2006; tỷ số giới tính khi sinh tăng lên 109,8 và luôn ở ngưỡng trên 111 bé trai/100 bé gái. Riêng năm 2009, tỷ số giới tính khi sinh có giảm nhẹ xuống 110,5/100 và có sự tăng giảm không ổn định. Cụ thể, năm 2010, tỷ lệ này là 111,2 bé trai/100 bé gái; năm 2015 là 112,8 bé trai/100 bé gái và năm 2019 là 111,5 bé trai/100 bé gái.

Ông Phạm Vũ Hoàng cho biết, tỷ số giới tính khi sinh ở nước ta diễn biến khá phức tạp và có sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn; giữa các vùng miền trong cả nước. Cụ thể, theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, tỷ lệ này ở khu vực thành thị thấp hơn nông thôn, tương ứng là 110,8 và 111,8 bé trai/100 bé gái. Xét ở phạm vi vùng kinh tế - xã hội, năm 2019, chỉ có Đồng bằng sông Cửu Long có tỷ số giới tính khi sinh ở ngưỡng an toàn (106,9 bé trai/100 bé gái) nhưng cũng đang gần tiệm cận với mức mất cân bằng trên 107. Các vùng còn lại đều đang đối mặt với tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, đặc biệt Đồng bằng sông Hồng có tỷ số chênh lệch rất cao là 115,5 bé trai/100 bé gái….

Theo số liệu thống kê tỷ số giới tính khi sinh giai đoạn 2010-2014 của Tổng cục Thống kê, mức độ mất cân bằng giới tính còn được chứng minh xảy ra nhiều hơn ở những cặp vợ chồng có trình độ học vấn cao, tình hình kinh tế khá giả. Mất cân bằng giới tính khi sinh xảy ra ngay ở lần sinh thứ nhất (110/100), không tăng đối với những ca sinh ở lần sinh thứ 2 và tăng cao ở lần sinh thứ 3 trở lên (119/100).

Bà Hà Thị Quỳnh Anh, chuyên gia về giới và nhân quyền của Quỹ Dân số Liên hợp quốc cho rằng, nguyên nhân dẫn đến mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam là do việc lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới. Nhiều gia đình ở Việt Nam còn mang nặng tư tưởng phải sinh được con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên, tăng cường sức lao động và làm chỗ dựa cho cha mẹ khi về già… Tư tưởng này xuất phát từ tư tưởng trọng nam khinh nữ đã hiện hữu trong suy nghĩ, thực hành của người dân Việt Nam từ hàng nghìn năm nay.

Bên cạnh đó, có thêm nhiều yếu tố tác động làm cho vấn đề này ngày càng trầm trọng hơn như: Lạm dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ để lựa chọn giới tính khi sinh; quy mô gia đình nhỏ buộc các gia đình phải lựa chọn có ít nhất một con trai; nhu cầu phát triển ở một số vùng đòi hỏi nhiều lao động nam. Thêm vào đó, chế độ an sinh xã hội cho người dân chưa đảm bảo, tỷ lệ người dân có lương hưu, đặc biệt ở nông thôn khi về già là rất thấp nên cần sự chăm sóc của con cái. Theo quan niệm truyền thống, trách nhiệm chăm sóc cha mẹ già thuộc về người con trai trong gia đình…

Tất cả những nguyên nhân trên dẫn đến việc mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 40.800 trẻ em gái không được sinh ra (theo Báo cáo Dân số thế giới năm 2020 do Quỹ Dân số Liên hợp quốc thực hiện). Con số này được tính dựa trên sự khác biệt giữa số ước tính trẻ em gái phải được sinh ra theo quy luật tự nhiên và số trẻ em gái thực tế được sinh ra trong một năm, bà Hà Thị Quỳnh Anh thông tin.

Nhiều hệ lụy khó lường

Nhiều lớp học ở thành phố Vinh tỷ lệ học sinh nam nhiều hơn nữ. Ảnh minh họa: Bích Huệ/TTXVN

Các nghiên cứu của quốc tế và Việt Nam đã chỉ ra, mất cân bằng giới tính khi sinh có thể dẫn đến những hệ lụy khó lường về mặt xã hội, kinh tế, thậm chí cả an ninh chính trị…

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Phạm Vũ Hoàng chia sẻ, trước hết, mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ dẫn đến tình trạng thừa nam, thiếu nữ trong độ tuổi kết hôn, từ đó, gây ra việc tan vỡ cấu trúc gia đình. Các chuyên gia quốc tế đã dự báo, nếu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh không được kiểm soát, đến năm 2050, Việt Nam sẽ dư thừa khoảng 2,3- 4,3 triệu nam giới. Điều đó dẫn đến việc, một bộ phận nam giới sẽ phải kết hôn muộn và nhiều người trong số họ không thể kết hôn. Việc gia tăng tỷ số giới tính khi sinh cũng làm gia tăng thêm sự bất bình đẳng như: Nhiều phụ nữ kết hôn sớm; tỷ lệ ly hôn và tái hôn của phụ nữ sẽ tăng cao; tình trạng bạo hành giới, mua dâm, buôn bán phụ nữ có nguy cơ tăng cao…

Bên cạnh những hệ lụy kể trên, bà Hà Thị Quỳnh Anh còn cho rằng, việc lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới sẽ khiến phụ nữ gặp áp lực phải sinh bằng được con trai, dễ dẫn đến nạo phá thai hoặc sinh con nhiều lần đến khi có được con trai. Điều này gây ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tinh thần, sức khỏe sinh sản và tình dục của phụ nữ. Nam giới sẽ khó tìm được bạn đời để kết hôn khi trưởng thành, đặc biệt là nam giới có trình độ học vấn thấp; gia đình nghèo; sống tại các vùng khó khăn.

Bà Hà Thị Quỳnh Anh cũng cho rằng, những định kiến giới có từ lâu đời có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển không chỉ của phụ nữ mà của cả nam giới, làm cho phụ nữ và nam giới không phát huy được hết khả năng bản thân. Ví dụ, nam giới luôn được coi phải là người mạnh mẽ, trụ cột, kiếm tiền lo cho gia đình, phải thành đạt, không được yếu đuối, ủy mị... Những định kiến này sẽ là áp lực vô cùng to lớn với nam giới, nhất là trong xã hội đang phát triển như Việt Nam. Khi họ không làm tròn mong đợi về giới này sẽ không được coi trọng. Do đó, cần có những chính sách can thiệp bình đẳng giới để giúp nâng cao vị thế phụ nữ và giúp nam giới thoát khỏi định kiến giới nặng nề.

Theo bà Hà Thị Quỳnh Anh, Việt Nam hiện chưa phải đối mặt rõ ràng với hậu quả của việc lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới. Tuy nhiên, những bài học từ Trung Quốc và Ấn Độ - các quốc gia đã trải qua vấn đề này trước Việt Nam hơn 20 năm đã chỉ ra rằng, hậu quả này có thể xảy ra. Do đó, Việt Nam cần xây dựng chính sách ứng phó kịp thời.

Bài cuối: Tăng cường xây dựng pháp luật và thay đổi nhận thức cộng đồng

Minh Huệ (TTXVN)

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/xa-hoi/no-luc-giam-thieu-mat-can-bang-gioi-tinh-khi-sinh-bai-1-mat-can-bang-gioi-tinh-khi-sinh-nhung-he-luy-kho-luong-20201010102903546.htm