Nỗ lực xóa bỏ khoảng cách giới

Bình đẳng giới là vấn đề luôn được Đảng và Nhànước dành sự ưu tiên đặc biệt. ViệtNam được đánh giá là một trong những quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhấttrong vòng 20 năm qua, được Liên hiệp quốc đánh giá là điểm sáng về thực hiệnbình đẳng giới trong thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ.

PhóChủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh với các đại biểu doanh nhân tiêu biểu ViệtNam được tặng Cúp Bông hồng vàng năm 2016 (Ảnh: TTXVN)

PhóChủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh với các đại biểu doanh nhân tiêu biểu ViệtNam được tặng Cúp Bông hồng vàng năm 2016 (Ảnh: TTXVN)

Lịchsử với nhiều ghi nhận

Lịch sử dân tộc Việt Nam đã khẳng địnhvai trò và những đóng góp to lớn của phụ nữ Việt Nam trên các lĩnh vực trongcác thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước. Từ ngàn xưa, vai trò của người Mẹ,người phụ nữ đã được tôn trọng, đề cao trong xã hội Việt Nam.

Theo tiến trình lịch sử, từ xa xưa ViệtNam đã xuất hiện những nữ tướng lãnh đạo lừng lẫy, những nữ anh hùng của dân tộc,có công lớn trong việc gìn giữ chủ quyền, độc lập dân tộc, xây dựng và phát triểnđất nước, như Hai Bà Trưng, Lê Chân, Triệu Thị Trinh, Bùi Thị Xuân, Nguyễn ThịMinh Khai, Nguyễn Thị Định... Họ là những đại diện cho trí tuệ, bản lĩnh, lòngyêu nước nồng nàn và phẩm giá cao quý của người phụ nữ Việt Nam.

Việt Nam là một trong những quốc gia sớmdành cho công tác bình đẳng giới những ưu tiên nhất định. Sinh thời, Chủ tịch HồChí Minh luôn quan tâm tới vấn đề bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ vào tạo điêùkiện để phụ nữ được tham gia vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trong các văn kiện thành lập Ðảng tháng2-1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu một chủ trương lớn về “thực hiện nam nữbình quyền”. Trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hiếnpháp năm 1946, tại Điều 9 đã đề cập thẳng đến quyền bình đẳng nam nữ: “Đàn bàngang quyền với đàn ông trên mọi phương diện”. Ðiều đó chứng tỏ, ngay từ khi thành lập Ðảng,vấn đề bình đẳng giới và giải phóng phụ nữ đã được Bác Hồ và Ðảng ta hết sứccoi trọng trong xây dựng đường lối cách mạng. Những năm qua, Đảng, Nhà nước đãthực hiện nhiều bước đột phá về nhận thức và hành động, từ đó đạt được nhiêùthành tựu quan trọng về bình đẳng giới.

Bác từng nói: “Giang sơn gấm vóc ViệtNam là do phụ nữ Việt Nam, trẻ cũng như già, dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”.Trong bản Di chúc, Người viết: “Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảmđang đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủcần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêmnhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữthì phải cố gắng vươn lên”.

Bởi vậy, trong các cuộc kháng chiến thốngnhất đất nước, người phụ nữ Việt Nam luôn phát huy vai trò to lớn của mìnhtrong tham gia lao động sản xuất, là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến cũngnhư trực tiếp cầm súng chiến đấu. Họ là những nhân tố tích cực nhất trong cácphong trào thi đua cứu nước. Hàng vạn nữ thanh niên xung phong đã hiến dâng tuôỉthanh xuân của mình cho nền độc lập của đất nước.

Nhữngthành tựu về bình đẳng cho nữ giới

Bước chân vào thời kỳ đổi mới, xây dựngvà phát triển đất nước theo hướng hiện đại, Đảng và Nhà nước tiếp tục thể hiệnsự quan tâm đến việc thực hiện các mục tiêu về bình đẳng giới và sự phát triểncủa phụ nữ, đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, luật pháp tạo điều kiệncho phụ nữ tiến bộ và tạo được bình đẳng. Và vấn đề này đã được thể chế hoáthành các văn bản luật như Luật Bình đẳng giới năm 2006, Luật Phòng, chống bạo lựcgia đình năm 2007 hay ban hành các chương trình hành động như: Chương trìnhhành động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016-2020, Chương trình hành độngquốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình đến năm 2020... để bảo đảm quyền lơịcho người phụ nữ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục, y tếvà ngay chính trong nội tại các gia đình.

Với những nỗ lực không ngừng nghỉ trongviệc cải thiện chính sách, tạo môi trường bình đẳng cho phụ nữ, nước ta đã đạtđược nhiều thành tựu về bình đẳng giới, xóa bỏ khoảng cách giới, đặc biệt là ởcác lĩnh vực lao động, việc làm, chăm sóc sức khỏe, giáo dục... Nổi bật là tỷ lệnữ tham gia chính trị tại tất cả các cấp đã có chuyển biến tích cực. Theo đó, quyềncủa phụ nữ tham gia vào các hoạt động chính trị được coi là nhân tố tiêu biêủnhất trong các điểm sáng về bình đẳng giới của Việt Nam với các điều luật được quyđịnh đầy đủ tại Hiến pháp 2013 (Điêù7, 16, 26, 27); Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị; Chiến lược quốc gia về bình đẳnggiới; Luật Bầu cử; Luật Bình đẳng Giới (Điều 11); Luật Lao động 2019…

Theo đó, tỷ lệ nữ giới đại diện trong cơquan lập pháp của Việt Nam ngày càng tăng và có thứ hạng cao nhất trong khu vựcnói riêng và trên thế giới nói chung. Ngày càng nhiều phụ nữ giữ cương vị lãnhđạo, quản lý cao và có vai trò trong lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Trong giai đoạn từ năm 1975-1976, sốlượng đại biểu Quốc hội nữ đạt mức cao nhất là 32% (khóa V), đến khóa XIII(2011-2016), tỷ lệ đã giảm còn 24,4% trong năm 2011, đến khóa XIV (2016-2021),số lượng có dấu hiệu tăng trở lại với mức 27,01% (131 đại biểu nữ/485 đại biểu),với 41 đại biểu nữ là người dân tộc thiểu số, bằng 32,30% tổng số đại biêủnữ. Tỷ lệ này được đánh giá cao hơn mức trung bình 23,4% toàn cầu và 18,6% củachâu Á, được Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp hạng đứng thứ 97/144 quốc gia về tỷlệ nữ tham gia chính trị, là 1 trong mười quốc gia thực hiện tốt nhất trên toànthế giới ở mục tiêu số 5 về bình đẳng giới và trao quyền cho tất cả phụ nữ vàtrẻ em gái, nâng cao trình độ học vấn của trẻ em gái và tăng cường sự tham giacủa phụ nữ trong lực lượng lao động.

Tỷ lệ nữ ủy viên Bộ Chính trị và ủy viênBCH Trung ương Đảng tăng trong 3 nhiệm kỳ liên tiếp. Lần đầu tiên,chúng ta có nữ Chủ tịch Quốc hội và có 3 ủy viên Bộ Chính trị là nữ; 13/30 bộ,cơ quan ngang bộ và cơ quan trực thuộc Chính phủ có thứ trưởng là nữ. Ở cấp tỉnhcó 7 bí thư, 14 phó bí thư, 8 chủ tịch, 31 phó chủ tịch HĐND, 18 phó chủ tịchUBND cùng nhiều nữ cán bộ đảm nhiệm các vị trí trọng trách ở các cơ quan Trungương và địa phương. Ở các địa phương, nhiều phụ nữ giữ vai trò chủ chốt ở các cấp,các ngành, góp phần giải quyết các vấn đề quan trọng.

Với chủ trương bình đẳng giới, trong thơìkỳ đất nước đẩy mạnh công cuộc đổi mới, Việt Nam cũng đặc biệt chú trọng đến việcmở rộng cơ chế chính sách khuyến khích các nữ doanh nhân làm chủ doanh nghiệp.Theo kết quả điều tra doanh nghiệp dân doanh của Phòng Thương mại và Công nghiệpViệt Nam (VCCI) trên toàn bộ các tỉnh, thành phố từ năm 2011 đến nay, doanh nghiệpdo phụ nữ làm chủ có xu hướng gia tăng theo thời gian. Tỷ lệ doanh nghiệp do nữlàm chủ tăng từ 4% năm 2009, đến tháng 9-2019, toàn quốc có 285.689 doanh nghiệpdo phụ nữ làm chủ, chiếm 24% tổng số doanh nghiệp cả nước. Dẫu vậy, con số nàycách xa mục tiêu, tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp đạt 30% vào năm 2015 và từ 35%trở lên vào năm 2020.

Tuy nhiên, nhìn vào khu vực châu Á, tỷ lệphụ nữ tham gia trong ban lãnh đạo cấp cao của các doanh nghiệp của Việt Nam lạithuộc nhóm khá cao trên thế giới, khi đứng thứ hai châu Á với tỷ lệ khoảng 36%,chỉ sau Phi-lí-pin. Nữ doanh nhân là người dân tộc thiểu số tăng, đặc biệttrong lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân vai trò của phụ nữdân tộc thiểu số được phát huy.

Bình đẳng giới trong lao động cũng đạtđược nhiều kết quả khả quan. Cũng theo báo cáo của VCCI, hiện có khoảng 45,6% lựclượng lao động xã hội là phụ nữ. Số lượng lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài,được hỗ trợ việc làm trong nước liên tục tăng. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao độnglên đến 73% trong tổng số phụ nữ trong độ tuổi lao động, với tỷ lệ thất nghiệpcủa lao động nữ rơi vào khoảng là 1,85% (2017). Như vậy, tỷ lệ phụ nữ Việt Namhiện đang đi làm nhiều hơn hẳn so với phần lớn các quốc gia trên thế giới.

Bên cạnh đó, các mô hình hỗ trợ học nghề,giải quyết việc làm cho lao động nữ ở khu vực nông thôn, miền núi, lao động nữdi cư tiếp tục phát huy hiệu quả. Theo kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số năm2019, toàn quốc có khoảng 91,7% dân số trong độ tuổi đi học phổ thông hiện đangđi học. Tỉ lệ này của nữ cao hơn so với nam, tương ứng là 92,5% và 90,8%. Tínhđến năm 2019, tỷ lệ phụ nữ Việt Nam biết chữ là 94,6%, tiến tới năm 2020, tỷ lệ biết chữ của phụ nữđạt 98%. Trong 20 năm qua, tỉ lệ biết đọc, biết viết của nữ tăng 7,7%; khoảng cách chênh lệch về tỉ lệ biết đọc, biết viết giữa nam và nữ đượcthu hẹp đáng kể. Tỉ số giới tính là 99,1 nam/100 nữ, trong đó khu vực thành thịlà 96,5 nam/100 nữ, khu vực nông thôn là 100,5 nam/100 nữ.

Đặc biệt, trong những năm vừa qua, tạicác đấu trường thể thao lớn của khu vực và thế giới, các vận động viên (VĐV) nữ củaViệt Nam làm rạng danh dân tộc với nhiều tấm huy chương danh giá, đại diện chohình ảnh người phụ nữ kiên cường, mạnh mẽ như hình ảnh VĐV bơi lội Nguyễn ThịÁnh Viên giành được 6 HCV và trở thành VĐV xuất sắc nhất SEA Games 30 tại Phi-lí-pin; đội tuyển nữ bóng đá Việt Nam bảo vệ thành công tấm Huy chương Vàng lần thứ 6tại SEA Games 30 hay nữ VĐV Taekwondo TrầnHiếu Ngân, người dành tấm Huy chương Bạc đầu tiên cho Việt Nam tại đấu trường Ô-lym-píc...

Nỗ lực bảo đảm bình đẳng giới của ViệtNam đã được quốc tế ghi nhận, theo xếp hạng năm 2018 của Liên hiệp quốc về chỉ sốbất bình đẳng giới, Việt Nam đứng thứ 68 trong 162 quốc gia được xếp hạng về bình đẳng giới. Theo chỉ số khoảngcách giới tính toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố ngày 17-12-2019,Việt Nam đứng thứ 87/153 quốc gia được xếp hạng về bình đẳng giới. Con sốnày thụt giảm 10 bậc so với năm 2018.

WEF ghi nhận Việt Nam đã cải thiện đượcchỉ số về Cơ hội và sự tham gia vào các hoạt động kinh tế của nữ giới. Đặc biệt,khoảng 45% thu nhập trong nền kinh tế Việt Nam thuộc về phụ nữ, đây là mức caonhất trong thống kê năm nay. Tuy nhiên, Việt Nam còn phải làm rất nhiều để cảithiện sự mất cân bằng giới tính khi sinh. Tỷ lệ giới tính khi sinh ở Việt Nam là 89 bé gái/100 bé trai. Việt Namcó sự suy giảm về chỉ số bình đẳng giới. Tuy nhiên, Việt Nam đang thể hiện sựthu hẹp khoảng cách giới về mặt chuyên môn đặc biệt trong nhóm các côngnhân kỹ thuật và các lĩnh vực giáo dục - đào tạo.

Tiếptục còn đó những rào cản và thách thức

Bình đẳng giới là vấn đề luôn được Đảngvà Nhà nước dành sự ưu tiên đặc biệt. Những nỗ lực trong việc thực hiện bình đẳnggiới của Việt Nam đã mang lại nhiều thành tựu to lớn được cộng đồng quốc tế ghinhận, đánh giá cao. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn nhiều tồn tại,hạn chế, cần sự vào cuộc của chính quyền, sự tham gia của toàn dân để khắc phục.

Việc yêu cầu quyền bình đẳng 100% là điêùkhông thể bởi tính đặc thù riêng của 2 giới. Tuy nhiên, chúng ta cũng cầnnhìn thẳng trực diện vào nỗ lực kéo dần khoảng cách giữa nam và nữ, đặc biệttrong các vấn đề liên quan đến quyền cá nhân. Bản thân người phụ nữ luôn gặp phảinhững rào cản trực tiếp từ nhiều mặt, ảnh hưởng tới quá trình công tác, sinh sốngcủa mỗi cá nhân. Ví dự như rào cản về mặt thể chế với sự khác biệt chỉ rõ trongđộ tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ theo quy định trong Bộ luật Lao động. Mặc dù Quốchội đã thông qua Luật Lao động sửa đổi, tăng tuổi nghỉ hưu của nam lên 62 và nữlà 60, tuy nhiên, xét về mặt thể trạng và điều kiện cá nhân, phụ nữ vẫn có thơìgian làm việc ngắn hơn, cũng như sẽ có ít thời gian hơn để thăng tiến trongcông việc so với các đồng nghiệp là nam giới. Với thiên chức làm mẹ, người phụnữ cũng gặp nhiều vấn đề hơn trong việc giải quyết các vấn đề xã hội như nhữngkhó khăn về quỹ thời gian và sức khỏe, khó khăn trong việc phấn đấu để đạt đượccác mục tiêu cao trong công việc và hạnh phúc gia đình…

Tại nhiều gia đình Việt Nam từ xưa đếnnay luôn quan niệm “đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” – đàn ông chính là trụ cộtgia đình, còn phụ nữ giữ trọng trách sinh con, đẻ cái, chăm sóc việc nội trợ, loliệu cho gia đình... Chính vì suy nghĩ ấy mà nhiều người phụ nữ suy nghĩ mình cầnlàm tròn vai trò của người vợ, người mẹ trong gia đình, hy sinh mọi thứ để ngươìchồng có thể phát triển và xây dựng sự nghiệp. Điều ấy tạo nên những “rào cản”vô hình ngăn cách phụ nữ được bình đẳng, được tự tin khẳng định bản thân vàphát triển tài năng của chính mình.

Nhìn thẳng vào thực tiễn, tính đến tháng6-2019, tình hình thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới chỉ có 8 chỉtiêu thống kê đã tiệm cận đạt, đạt và vượt so với yêu cầu của Chiến lược quốcgia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020.

Ngay trong việc thực hiện quyền của phụnữ tham gia vào các hoạt động chính trị ở cấp địa phương còn có nhiều điểm hạnchế. Tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy nhiệm kỳ 2015-2020 ở cấp xã chỉ đạt 19,69%;cấp huyện chỉ đạt 14,3%; cấp tỉnh chỉ đạt 13,3%. Nữ đại biểu Quốc hội khóa XIVđạt 131 người (tỷ lệ 27,01%) nhưng vẫn còn cách khá xa so với mục tiêu của Chiếnlược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đã đặt ra. Chỉ có 13,7% nữđại biểu tham gia giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt trong các cơ quan của Quốc hôịvà chủ yếu tập trung vào các cơ quan văn hóa - xã hội, thiếu vắng phụ nữ trongcác cơ quan Quốc hội về kinh tế, đối ngoại, tài chính, pháp luật... Tỷ lệ phụ nữtham gia đại biểu HĐND cấp xã đạt 26,59%; cấp huyện đạt 27,85%; cấp tỉnh đạt26,54%; nhiều tỉnh, thành phố có tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý cấp xã dưới 5%,trong đó phần lớn là các tỉnh, thành phố phía bắc. Chưa tính đến việc, tỷ lệ phụnữ dân tộc thiểu số tham gia các vị trí lãnh đạo các cấp còn ít, tỷ lệ nghèo củađồng bào dân tộc thiểu số còn cao.

Ở nước ta, mất cân bằng giới tính khisinh có xu hướng tiếp tục tăng và lan rộng ở cả nông thôn, thành thị, ở tất cảcác vùng, miền. Nếu không cónhững biện pháp can thiệp kịp thời, dự báo đến năm 2050, Việt Nam sẽ thiếu từ2,3 đến 4,3 triệu phụ nữ.

Sự bất bình đẳng về giáo dục vẫn còn tồntại khi tỷ lệ học sinh nữ ở cấp tiểu học và THCS thấp hơn học sinhnam, nhất là ở các vùng nông thôn nghèo và vùng dân tộc thiểu số. Việc tiếp cậndịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng nông thôn, vùng dân tộc thiêủsố còn hạn chế. Tỷ lệ tử vong sản phụ còn cao so với một số nước trong khu vực.

Tình trạng bạo lực, xâm hại phụ nữ và treẻm vẫn tồn tại khá nghiêm trọng. Nhận thức về pháp luật của cán bộ và người dânvề phòng, chống bạo lực gia đình còn hạn chế. Chế tài thực hiện Luật Phòng, chốngbạo lực gia đình chưa mạnh, chưa xử lý nghiêm các hành vi bạo lực gia đình.

Bên cạnh đó, đặc biệt trong lĩnh vựckinh tế, sự bất bình đẳng giới thể hiện rõ nét ở thị trường lao động và trongthu nhập. Cơ hội của phụ nữ tiếp cận việc làm có thu nhập cao và các nguồn lựckinh tế vẫn còn thấp hơn so với nam. Nhiều doanh nghiệp tỏ ra e ngại khi tiếpnhận một lao động nữ trẻ vì họ sẽ bị vướng thời gian 6 tháng nghỉ thai sản.

Theo thống kê, hiện nay nam giới chiếmưu thế trong kiểm soát đất đai và các tài sản giá trị cao. Hầu hết các giấy chứngnhận quyền sử dụng đất được cấp mang tên chủ hộ là nam giới. Hay riêng về mặtluật pháp, một số văn bản hướng dẫn, thể chế hóa quy định của pháp luật liênquan đến bình đẳng giới chậm được ban hành. Việc triển khai quy định lồng ghépvấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và đánh giá việclồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thẩm định các dự thảo văn bảnquy phạm pháp luật đạt kết quả chưa cao.

Với những rào cản và thách thức trên, ViệtNam sẽ tiếp tục nỗ lực cố gắng tăng cường nhận thức về bình đẳng giới, thay đôỉthái độ và tư tưởng về giới vốn là định kiến trong xã hội; thúc đẩy hợp tác quốctế trong việc giải quyết vấn đề bình đẳng giới, đặc biệt là ở các nhóm yếu thếvà trong các lĩnh vực có tính chiến lược như giáo dục, y tế, việc làm.

P.V

Nguồn Xây Dựng Đảng: http://www.xaydungdang.org.vn/home/nhan_quyen/2020/13678/no-luc-xoa-bo-khoang-cach-gioi.aspx