Pháp luật các triều đại Việt Nam và các nước (Kỳ 31)

Trân trọng giới thiệu tiếp sách 'Pháp luật các triều đại Việt Nam và các nước' của TS Sử học Cao Văn Liên do Nhà xuất bản Thanh niên - HN - 2004 ấn hành.

Kỳ 31

- Chương Quân chính: 43 điều.

Quyển 3 gồm 3 chương:

- Chương Hộ hôn: 58 điều.

- Chương Điền sản: 59 điều

- Chương Thông gian: 10 điều.

Quyển 4 gồm 2 chương:

- Chương Đạo tặc: 54 điều.

- Chương Đấu tụng: 50 điều.

Quyển 5 gồm 2 chương:

- Chương Trá ngụy: 38 điều.

- Chương Tạp luật: 92 điều.

Quyển 6 gồm 2 chương:

- Chương Bộ vong: 13 điều.

- Chương Đoán ngục: 65 điều.

“Quốc triều hình luật” là bộ luật tổng hợp, phạm vi điều chỉnh rộng bao gồm những quy phạm pháp luật như hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, tố tụng. Các quy phạm pháp luật đều được xây dựng dưới dạng hình sự, áp dụng chế tài hình luật. Tuy nhiên do hạn chế thời đại quy định, “Quốc triều hình luật” chưa phân chia thành các ngành luật rõ ràng. Căn cứ vào nội dung tạm phân như sau:

2. Luật hình

a. Chương Danh lệ

Quy định những nguyên tắc chung được áp dụng khi trừng phạt. Điều 47 quy định khi xét xử phân biệt tội cố ý và tội vô ý để “tha người lầm lỡ”, không kết tội nặng, bắt tội người cố ý không kết tội nhẹ. Điều 35 quy định cần phạt nặng hơn đối với người chủ mưu khởi xướng và nhẹ hơn một bậc đối với người đồng phạm (a tòng).

Luật quy định khi xét xử phải kèm tang vật để nếu kẻ phạm hai tội trở lên cùng phát hiện ra thì theo tội nặng mà định tội, nếu phạm tội nhiều lần thì tính gồm cả tang vật lại mà định tội.

Trong chương Danh lệ, nói về việc chuộc tội bằng tiền. Người được chiếu cố là những người già trên 90 tuổi, trẻ em dưới 7 tuổi được tha miễn dù bị tội chết. Những người được xếp vào hàng bát nghị(1) khi phạm tội nặng trên phạm tội nặng (trừ tội thập ác) thì quan xét xử chỉ xác định tội trạng và hình phạt từ lưu trở xuống thì giảm một bậc. Luật quy định giảm hình phạt cho con cháu những người có công với triều đình, cho phụ nữ là vợ quan theo quan phẩm của chồng.

Luật cho phép dùng tiền để chuộc tội, trừ tội thập ác. Những người thuộc diện này bao gồm họ hàng nhà vua, hoàng hậu, người già trên 70 tuổi và trẻ em dưới 15 tuổi, người tàn tật. Những người phạm tội nhẹ mà ra tự thú cũng được tha hoặc miễn tội. Luật cũng trừng trị những kẻ bao che cho tội phạm và thưởng công cho những người tố giác.

Hệ thống hình phạt của pháp luật nhà Lê, do ảnh hưởng của luật Trung Quốc nên cũng quy định 5 hình phạt chính gọi là ngũ hình. Trong mỗi hình phạt lại chia thành nhiều bậc, tùy tội nặng nhẹ mà trừng phạt khác nhau:

- Xuy: có 5 bậc: Đánh từ 10 đến 50 roi.

- Trượng: có 5 bậc: Đánh từ 60 đến 100 trượng.

- Đồ có 3 bậc:

+ Đàn ông: bắt làm dịch đinh (phục vụ trong làng xã hoặc trong quân đội), hoặc bắt làm tượng phường binh (phục vụ ở chuồng voi), hoặc bắt làm chủng điền binh (phục dịch ở ruộng đồng).

+ Đàn bà: bắt làm dịch phụ (phục dịch trong làng làm vườn, hoặc nuôi tằm), hoặc bắt làm xuy thất tì (phục vụ trong nhà bếp), hoặc bắt làm trung thất tì (làm nô tì trong nhà, xay lúa, giã gạo).

- Lưu: chia làm 3 bậc: Đày đi châu gần, đày đi châu ngoài, đày đi châu xa.

Ngoài ra còn kèm theo một số hình phạt phụ.

- Tử: chia làm 3 hình thức:

+ Giảo: thắt cổ cho chết.

+ Trảm: chém chết.

+ Trảm khiêu: chém và bêu đầu.

+ Lăng trì: xẻo thịt dần cho chết.

Ngoài ngũ hình là hình phạt chính, luật còn quy định những hình phạt phụ khác như:

+ Cùm, gông.

+ Thích chữ vào mặt.

+ Phạt tiền.

+ Biếm tước (giáng chức): 5 bậc.

+ Giáng chức và tịch thu tài sản.

Đi kèm với giáng chức, luật cũng định ra người có công được thưởng phẩm hàm chức tước hoặc thưởng bằng tiền. Người có công tố giác tội phạm được nhà nước đặc biệt chú ý. Các hình phạt đánh roi, đánh trượng, pháp luật cho phép con cháu được chịu đòn thay cho bố mẹ, ông bà.

Các tội danh:

Không chỉ quy định lệ mà hầu hết các chương của “Quốc triều hình luật” đều quy định các tội danh, xếp đầu tiên là tội thập ác.

Đó là 10 tội nặng nhất trong thời phong kiến nói chung và nhà Lê nói riêng vì nó xâm hại tới quyền lực nhà vua, đe dọa sự tồn tại của triều đình, của quốc gia, xâm hại tới tôn ty trật tự xã hội và gia đình phong kiến, xâm hại tới những mối quan hệ được nhà nước bảo vệ (tam cương: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ).

Người phạm tội “thập ác” bị trừng phạt nặng nề thường là ở mức độ cao nhất: tử. Phạm các tội này người thuộc diện bát nghị cũng không được chiếu cố, không được chuộc tội bằng tiền.

b. Chương Cấm vệ

“Quốc triều hình luật” - tức luật Hồng Đức nghiêm cấm các hành vi xâm pham đến hoàng thành, cung điện, xâm phạm đến tính mạng, tài sản của vua và của hoàng tộc, xâm phạm an ninh biên giới quốc gia. Luật quy định những người không có phận sự hết giờ chầu không được ở trong cung điện. Không được ngạo mạn hoặc đùa cợt, tùy tiện nói chuyện với cung nữ. Không được tiết lộ bí mật quốc gia, không được đem ruộng đất bán cho nước ngoài.

Nếu phạm các tội trên, hình phạt nặng, từ đồ, lưu đến tử.

Đối với quan lại, luật Hồng Đức quy định trừng trị những hành vi nhận hối lộ, cố ý làm trái chiếu chỉ của vua, thiếu trách nhiệm trong khi thi hành công việc, sử dụng quyền hành để áp bức nhân dân. Khung hình phạt của các tội danh này bao gồm tất cả ngũ hình.

Luật quy định xử phạt đối với tội trộm cướp, giết người, đánh nhau gây thương tích, lăng mạ và vu cáo người khác, gian dối giả mạo giấy tờ, ấn tín, chức vụ để mưu lợi, thông gian, cưỡng gian, phao tin đồn nhảm và tội làm nghề mê tín dị đoan.

c. Chương Quân chính

Chương này gồm những quy phạm pháp luật quy định xử phạt các tội của các tướng sĩ và binh lính. Luật quy định phạt tướng không chịu rèn luyện quân, không chống nổi giặc, tiết lộ việc quân cơ. Phạt lính khi xung trận không theo hiệu lệnh, đảo ngũ, bỏ trốn, làm mất binh khí. Các tội tùy theo nặng, nhẹ mà áp dụng ngũ hình từ thấp đến cao.

Tóm lại, luật là một nội dung quan trọng, chiếm phần lớn số lượng các điều khoản ghi trong “Quốc triều hình luật”.

(Còn nữa)
CVL

---------------------------------

(1)Bát Nghị:

1. Nghị thân: những người họ hàng thân thiết của nhà vua trong 5 thế hệ. Những người họ hàng củaHoàng thái hậu phải để tang 3 tháng đến 5 tháng trở lên.

2. Nghị cố: Những người cố cựu, tức người đã theo giúp vua lâu ngày hoặc những người giúp việc từ triều trước.

3. Nghị hiền: Những người hiền nhân, có đức hạnh lớn.

4. Nghị năng: Những người có tài năng lớn.

5. Nghị công: Những người có công lớn.

6. Nghị quý: Những quan lại cao quý có chức vị từ tam phẩm trở lên. Những chức quan nhàn tản như hàn lâm, học quan hay có tước từ nhị phẩm trở lên.

7. Nghị cần: Những người cần cù chăm chỉ.

8. Nghị tân: Những tôn thất của các triều trước (được coi là tân khách của đương triều).

TS Cao Văn Liên

Nguồn Văn Hiến: http://vanhien.vn/news/phap-luat-cac-trieu-dai-viet-nam-va-cac-nuoc-ky-31-83914