Quân khu 1 đẩy mạnh sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng

TCCS - Những năm qua, cùng với việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị trọng tâm, thường xuyên là huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, Quân khu 1 đã tập trung đẩy mạnh sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng và đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tích cực vào hoàn thành nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương trên địa bàn.

Cán bộ, nhân viên Ban Chỉ huy Quân sự huyện Phú Bình (Thái Nguyên) chăm sóc rau tại khu tăng gia tập trung của đơn vị - Nguồn: baoquankhu1.vn

Quân khu 1 đóng trên địa bàn chiến lược quan trọng cả về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của khu vực miền Bắc và cả nước. Đây cũng là địa bàn có nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống (chiếm 33,9% dân số); kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển không đều, thu nhập bình quân đầu người thấp, khả năng huy động nguồn lực đầu tư cho quốc phòng của các địa phương còn gặp khó khăn. Trong những năm vừa qua, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng: “Kết hợp tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; các dự án phát triển kinh tế - xã hội trong các khu vực phòng thủ phải bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, nhất là ở những vị trí trọng yếu, chiến lược”(1), Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 1 đã có nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đẩy mạnh sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế; qua đó, đạt được hiệu quả ngày càng cao, nhất là trên tuyến biên giới và các địa bàn trọng điểm.

Đối với vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, Quân khu phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền 3 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và Bắc Kạn xây dựng các dự án phát triển kinh tế - xã hội trên các địa bàn chiến lược, nhất là khu vực có tầm quan trọng đặc biệt, hết sức trọng yếu trong chiến lược phòng thủ. Trên địa bàn hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng, Quân khu chỉ đạo các đoàn kinh tế - quốc phòng 338 và 799 lập kế hoạch nhu cầu vốn đầu tư hằng năm, xác định rõ nội dung, quy mô đầu tư chi tiết các hạng mục và triển khai thực hiện có hiệu quả nguồn vốn của Bộ Quốc phòng; phối hợp với địa phương sắp xếp, ổn định dân cư, xây dựng các cụm dân cư trong vùng dự án; thường xuyên nắm chắc số lượng, chất lượng hộ dân, phân loại hộ dân theo các tiêu chí để có biện pháp hỗ trợ phù hợp, bền vững trong khu kinh tế - quốc phòng, bảo đảm phù hợp với các chế độ, chính sách hiện hành của Nhà nước.

Các cơ quan, đơn vị trong Quân khu tích cực phối hợp với địa phương thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, trọng tâm là thực hiện Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP, ngày 27-12-2008, của Chính phủ, “Về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo”, Nghị quyết số 80/NQ-CP, ngày 19-5-2011, của Chính phủ, “Về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020” và các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, hậu phương quân đội. Cơ quan quân sự của các tỉnh trên địa bàn và các đoàn kinh tế - quốc phòng 338, 799 có nhiều đóng góp quan trọng trong thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất, xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng, an ninh, góp phần bảo đảm an ninh xã hội, củng cố vững chắc “Thế trận lòng dân” trên địa bàn đóng quân(2).

Đối với vùng đô thị, vùng kinh tế trọng điểm, Quân khu xác định đây là khu vực nòng cốt cho sản xuất, xây dựng phát triển kinh tế của cả địa bàn, nhất là các địa phương có mật độ dân cư và tính chất đô thị hóa cao, có nhiều trung tâm giáo dục, đào tạo, các khu công nghiệp lớn và các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài, như Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã quan tâm chỉ đạo, phối hợp thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng trên các vùng này, cụ thể là xây dựng các khu công nghiệp phải gắn với quy hoạch xây dựng lực lượng quốc phòng, các tổ chức chính trị, đoàn thể trong các tổ chức kinh tế ở các khu công nghiệp, như các khu công nghiệp Đình Trám, Quang Châu của tỉnh Bắc Giang; các khu công nghiệp Yên Phong, Quế Võ, Từ Sơn của tỉnh Bắc Ninh; các khu công nghiệp Yên Bình, Điềm Thụy, Sông Công của tỉnh Thái Nguyên.

Trên tất cả các địa phương thuộc địa bàn, Quân khu chỉ đạo lực lượng thường trực, cơ quan quân sự địa phương, dân quân, tự vệ phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ, huấn luyện dân quân, tự vệ, dự bị động viên; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng; huấn luyện quân sự, mở lớp học kỳ quân đội cho học sinh, sinh viên(3). Đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục về âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; chủ động đấu tranh, phản bác thông tin sai trái nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ Đảng, Nhà nước, Quân đội với nhân dân. Qua đó, góp phần làm cho nhân dân, cán bộ, chiến sĩ thấy rõ giá trị của độc lập, tự chủ, hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; tạo sự đồng thuận để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của các địa phương, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn Quân khu(4).

Đối với lực lượng thường trực, Quân khu chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chủ động tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế bằng nhiều hình thức, biện pháp phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng địa phương. Công tác tăng gia sản xuất và hoạt động có thu của các đơn vị thường trực, đơn vị sự nghiệp có bước phát triển mới, đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả(5). Đến nay, hầu hết các đơn vị trong Quân khu tự túc được 100% nhu cầu rau xanh, từ 70% đến 75% nhu cầu thịt, cá; qua đó, giữ ổn định và cải thiện một bước đời sống bộ đội, đồng thời tạo nguồn thu bổ sung cho hoạt động của đơn vị và góp phần ổn định giá cả thị trường, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển...

Những kết quả quan trọng bước đầu đạt được trong đẩy mạnh sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng của Quân khu thời gian qua đã thiết thực góp phần xóa đói, giảm nghèo, vừa bảo đảm nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội vừa đáp ứng yêu cầu tăng cường quốc phòng, an ninh trên địa bàn. Cụ thể, đời sống của nhân dân các dân tộc trên địa bàn được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn so với mức bình quân của cả nước; chủ quyền biên giới được bảo vệ vững chắc; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều thành tựu...(6). Nhờ vậy, thế trận quốc phòng, an ninh trên địa bàn được củng cố, biên giới quốc gia được giữ vững.

Thời gian tới, thực hiện phương hướng được nêu trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân khu lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2015 - 2020: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang Quân khu và hệ thống chính trị các địa phương. Tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng bộ; xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, xây dựng khu vực phòng thủ ngày càng vững chắc, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống; bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn”, đồng thời tiếp tục quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 520-NQ/QUTW, ngày 25-9-2012, của Quân ủy Trung ương về “Lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng của Quân đội đến năm 2020”, Đảng ủy Quân khu xác định một số nhiệm vụ chủ yếu như sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp đối với nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng. Đây là nguyên tắc, là nhân tố quyết định bảo đảm hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế được tiến hành đúng hướng, đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Theo đó, Quân khu chỉ đạo các đơn vị tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 520-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương và nắm vững Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 520-NQ/QUTW của Đảng ủy Quân khu. Trên cơ sở đó, chủ động triển khai thực hiện nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng bằng những biện pháp thiết thực, sát với đặc điểm, nhiệm vụ được giao, đặc biệt là thực hiện tốt Quy chế quản lý hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân khu. Chú trọng đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ, trước hết là cấp ủy, chỉ huy, đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng; vai trò của Quân đội trong việc tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, tăng cường quốc phòng, an ninh, nhất là trên các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới... Từ đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ đối với nhiệm vụ này.

Hai là, Quân khu chỉ đạo cơ quan quân sự các cấp tham mưu, hướng dẫn, giúp cấp ủy, chính quyền các địa phương phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh. Chủ trương này phải được cấp ủy, chính quyền các địa phương cụ thể hóa và triển khai thực hiện ngay từ trong quy hoạch, kế hoạch phát triển tổng thể, nhằm bảo đảm cho kinh tế và quốc phòng phát triển cân đối, hài hòa, thường xuyên hỗ trợ, tác động lẫn nhau. Trên cơ sở đó, Quân khu phối hợp với các địa phương tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, toàn diện, nhất là kết cấu hạ tầng ngành giáo dục - đào tạo, y tế, bưu chính - viễn thông..., hệ thống đường tuần tra biên giới, công trình nông thôn mới; xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu, cụm công nghiệp lưỡng dụng; điều chỉnh lại thế bố trí dân cư gắn với quy hoạch phát triển kinh tế địa phương và phương án tác chiến phòng thủ các cấp... Tăng cường xây dựng các cơ chế đặc thù đối với địa phương đặc biệt khó khăn, theo phương châm: “Ưu tiên phát triển kinh tế nhưng không làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ quốc phòng”; triển khai thực hiện hiệu quả Đề án “Bảo đảm quốc phòng” trên địa bàn 3 tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn theo kế hoạch đã phê duyệt. Chú trọng nâng cao năng lực, hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp quốc phòng, đơn vị làm kinh tế trên địa bàn, gắn với đẩy mạnh xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở các địa phương vững mạnh, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Ba là, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, thế trận quân sự liên hoàn, vững chắc, có chiều sâu và chuyển hóa linh hoạt, tạo tiềm lực quân sự vững chắc cho khu vực phòng thủ. Đối với lực lượng thường trực, Quân khu chủ trương xây dựng bộ đội chủ lực theo hướng tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt, có chất lượng tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu ngày càng cao; ưu tiên xây dựng các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, đóng trên địa bàn chiến lược trọng yếu. Xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh, thế trận quân sự liên hoàn, vững chắc, có chiều sâu và chuyển hóa linh hoạt...; xây dựng bộ đội địa phương, nhất là cơ quan quân sự các cấp vững mạnh về mọi mặt, không ngừng nâng cao năng lực tham mưu, tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương và làm nòng cốt trong xây dựng khu vực phòng thủ. Xây dựng lực lượng dự bị động viên có chất lượng ngày càng cao, sẵn sàng động viên thực hiện nhiệm vụ khi cần thiết. Với lực lượng dân quân, tự vệ, cùng với việc tập trung xây dựng theo hướng “vững mạnh, rộng khắp”, cần có cơ cấu hợp lý, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng và độ tin cậy về chính trị, để lực lượng này đủ sức bảo vệ trị an, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội ngay từ cơ sở.

Trong xây dựng thế trận quân sự, Quân khu chỉ đạo cơ quan quân sự các cấp tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các địa phương tự cân đối ngân sách để từng bước hoàn thiện thế trận theo hướng: Liên hoàn, vững chắc, có chiều sâu, bảo đảm chất lượng, hiệu quả, bí mật, an toàn; phù hợp với đặc điểm địa hình, thế đứng chân của các lực lượng cơ động của Bộ Quốc phòng và Quân khu trên địa bàn và phương án tác chiến phòng thủ các cấp. Kết hợp chặt chẽ giữa làm mới với tiếp tục cải tạo, nâng cấp các công trình, hang động có sẵn nhằm giảm chi phí nhưng vẫn bảo đảm mục đích sử dụng. Phấn đấu đến năm 2020, việc xây dựng sở chỉ huy thời chiến đạt 70% số cấp tỉnh, 30% số cấp huyện. Trong quá trình xây dựng thế trận quân sự, cần thực hiện tốt phương châm “làm đến đâu chắc đến đó”, gắn với công tác quản lý, bảo vệ; ưu tiên đầu tư xây dựng trước những công trình chiến đấu thiết yếu, quan trọng, sau đó từng bước hoàn thiện các công trình bảo đảm còn lại theo kế hoạch đã phê duyệt, góp phần xây dựng khu vực phòng thủ trên địa bàn Quân khu ngày càng vững chắc, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Bốn là, tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức, biên chế, nâng cao năng lực của các đoàn kinh tế - quốc phòng, đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu trong tình hình mới. Quân khu tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh kiện toàn tổ chức, biên chế, hoàn thiện cơ chế điều hành, quản lý hoạt động của các đoàn kinh tế - quốc phòng và Công ty trách nhiệm hữu hạn Xây lắp 86, khắc phục tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, hoạt động kém hiệu quả. Việc kiện toàn các đoàn kinh tế - quốc phòng cần được thực hiện theo hướng giảm khâu trung gian, giảm tối đa biên chế cơ quan để tăng cường quân số cho các đơn vị, đội sản xuất. Đến năm 2019, Quân khu phấn đấu hoàn thành việc điều chỉnh, ổn định tổ chức, biên chế của các đoàn kinh tế - quốc phòng và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các đơn vị này. Theo chỉ đạo của Quân khu, các khu kinh tế - quốc phòng tham gia những dự án trọng điểm của địa phương theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, chỉ đạo tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tài chính, nhằm phát huy năng lực của các đơn vị, doanh nghiệp trong sản xuất, xây dựng kinh tế, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và bổ sung ngân sách quốc phòng, góp phần củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng.

Năm là, chú trọng tổ chức và quản lý chặt chẽ hoạt động tăng gia sản xuất, dịch vụ của các đơn vị thường trực và đơn vị sự nghiệp. Các đơn vị cần tích cực phát huy thế mạnh tại chỗ và tận dụng năng lực dôi dư để tổ chức tăng gia sản xuất, làm kinh tế bảo đảm đúng quy định của Bộ Quốc phòng. Trong đó, chú trọng khai thác, sử dụng hợp lý quỹ đất quốc phòng chưa sử dụng ngay cho mục đích quốc phòng vào mục đích kinh tế; tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng mô hình tăng gia sản xuất “5 cơ bản” (vườn, ao, chuồng, giàn, trạm chế biến tập trung), phù hợp với điều kiện của từng đơn vị và đồng bộ ở cả 3 cấp theo hướng tập trung, khép kín, bền vững, ổn định lâu dài. Đặc biệt, cần đẩy mạnh tăng gia sản xuất ở cấp tiểu đoàn gắn với bếp ăn tập trung và kết hợp triển khai các dự án tăng gia sản xuất gắn với xây dựng các căn cứ hậu cần của khu vực phòng thủ. Bên cạnh đó, các đơn vị cần tích cực áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ; chú trọng tổ chức sản xuất gắn với phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nhất là trên các địa bàn vùng sâu, biên giới; đồng thời thực hiện nghiêm quy định về quản lý nguồn thu từ tăng gia sản xuất, quản lý hoạt động có thu, sử dụng các nguồn thu đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả./.

--------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 312
(2) Thực hiện Chương trình “Bò giống giúp hộ nghèo, cận nghèo biên giới”, mỗi năm các đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu đã trao tặng cho bà con nông dân trên địa bàn hàng trăm con bò giống; phối hợp với các địa phương tổ chức 1.520 lớp tập huấn cho 12.265 lượt người về chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất; xây dựng 140 mô hình phát triển kinh tế tập thể, bảo vệ môi trường, điểm sáng về văn hóa và tình đoàn kết quân dân đạt hiệu quả
(3) Từ tháng 6-2016 đến tháng 8-2018, Quân khu huấn luyện cho trên 182.620 lượt dân quân, tự vệ, dự bị động viên; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho 15.890 lượt người; huấn luyện quân sự, mở lớp học kỳ quân đội cho 58.250 học sinh, sinh viên
(4) Từ tháng 6-2016 đến tháng 8-2018, Quân khu phối hợp tổ chức tuyên truyền chống truyền đạo trái pháp luật 23 buổi/42 thôn, bản, thuộc 26 xã; tuyên tuyền chống xâm canh, xâm cư, xâm táng, vượt biên trái phép, thực hiện Quy chế đường biên hơn 8.700 buổi; phát 650 bản tin, 2.186 tài liệu hướng dẫn phát triển kinh tế hộ gia đình; phối hợp xây dựng 18 phóng sự truyền hình, 512 tin, bài cho chuyên mục “Quốc phòng toàn dân”
(5) Năm 2017, toàn Quân khu thu hoạch được trên 2.735 tấn rau xanh; 1.517 tấn thịt lợn quy xô; 380 tấn cá tươi; hàng triệu quả trứng gia cầm... Tổng giá trị (đã trừ chi phí) đạt hơn 22 tỷ đồng
(6) Từ tháng 6-2016 đến tháng 8-2018, Quân khu đã giúp các địa phương trên địa bàn 255.977 lượt ngày công làm mới, tu sửa, nâng cấp trên 154km đường giao thông nông thôn; tu sửa, nạo vét 230km kênh mương; phát quang 54km đường biên giới; sửa chữa, làm mới 3.210 nhà ở, 12 trạm y tế; chăm sóc trên 9.900ha rừng phòng hộ; huy động 10.795 lượt quân nhân và dân quân, tự vệ tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai; khám, tư vấn cho 97.349 người, cấp thuốc miễn phí trị giá 6,6 tỷ đồng...

Trần Hồng MinhThiếu tướng, Tư lệnh Quân khu 1

Nguồn Tạp chí cộng sản: http://www.tapchicongsan.org.vn/home/an-ninh-quoc-phong/2018/53129/quan-khu-1-day-manh-san-xuat-xay-dung-kinh-te-ket.aspx