Sách cũ, người cũ, nhưng mới từ lâu

I- Đề nghị về miền 'không để hiểu'/ 'không để tri giác'Tháng 8.1990, Nhà xuất bản Mỹ thuật thuộc Hội Mỹ thuật Việt Nam, xuất bản cuốn 'Ghi chú về nghệ thuật' của họa sĩ - nhà phê bình/nghiên cứu Nguyễn Quân. Thực ra, cuốn sách đã 'gần xong' từ năm 1980, trước khi in gần 10 năm, lúc Nguyễn Quân 32 tuổi.

Chương mở đầu, “Những cửa vào nội giới - vấn đề hạnh phúc”, là phần quan trọng nhất. Nó là “sợi chỉ xanh” xuyên suốt cuốn sách này. Đặc biệt thú vị (và được viết rất hay) ở chương này là, thông qua phân tích quá trình đào luyện ngũ quan, Nguyễn Quân đã lý giải rất thuyết phục, cơ chế hưởng thụ và sáng tạo nghệ thuật - cơ chế giải phóng cái tiềm năng (để nhiều phần đã thành ra năng lực thực tế) quý nhất, cao nhất, của con người/loài người.

Nguyễn Quân viết: “5 giác quan là 5 cửa vào nội giới (thế giới bên trong) của con người, cũng là 5 cửa mở ra ngoại giới (thế giới bên ngoài họ)”; “5 giác quan là cơ sở cho mọi thông tin căn bản, nguyên ủy, và khởi đầu cho việc tạo dựng cái thế giới thăng hoa trên cơ sở thân thể người ta” (đúng vậy, nếu 5 giác quan ấy bị tê liệt, nội giới người ta sẽ trống rỗng hoặc tù đọng và quá trình tiến hóa thông thường lập tức dừng lại hoặc tắt hẳn, nói gì đến việc thăng hoa, đặc biệt là việc thăng hoa để hưởng thụ và sáng tạo nghệ thuật). Nhưng như thế là chưa đủ! Nguyễn Quân viết tiếp: “Khả năng hưởng thụ để có khoái thú thẩm mỹ, không chỉ là những gì đi qua 5 cửa này. [...] Cái đáng bàn (vấn đề là), cảm giác sướng của người ta (lại) không nằm ở số lượng những gì đi qua 5 cửa kia, mà nằm ở khả năng kiểm soát/khám xét mọi cái đi qua 5 cửa ấy, như người hải quan kiểm/khám hàng nhập cảnh vậy... Chỉ có khả năng soát xét kỹ càng (của 5 cửa vào đã nói), mới tạo ra, mới chính là, xúc cảm”. Tuy nhiên, xúc cảm bậc 1 ấy mới chỉ “tạo ra sướng/khổ... ở tầng sơ đẳng và cần thiết nhất”, mà sinh vật cấp thấp cũng có thể có. Nhưng gắn với/thông qua “liên tưởng”, chỉ ở con người, mới tạo ra một loại “xúc cảm hỗn hợp” có giá trị tiến hóa cao, tùy thuộc ở từng cá nhân cụ thể, chứ không được đưa vào “mã di truyền” của cả loài người (cho nên, không ai không học - hành, rồi chỉ dựa vào “mã di truyền” để thành ra nhà thông thái và nghệ sĩ lớn được). “Xúc cảm hỗn hợp” ở con người, lúc đầu do các “liên tưởng đơn”, sau đó, vì vô vàn các “liên tưởng đơn” chồng chéo, thắt buộc, giằng kéo nhau như cuộn chỉ rối; mà nếu không thoát ra được, sẽ giống/là trạng thái bệnh lý - người ta sẽ “sa lầy, chết đuối” ở đây - nên, để “thoát chết” và tiến hóa, ở con người xuất hiện khả năng “liên tưởng đa chiều” để có Xúc cảm bậc 2, cao hơn. Từ “Xúc cảm bậc 2” có bởi “liên tưởng đa chiều”, con người mới có thể sáng tạo nghệ thuật và thăng hoa trong hưởng thụ nghệ thuật - mới có khoái thú thẩm mỹ. Tuy thế, xúc cảm và liên tưởng của con người, dù đã là bậc 2 như thế rồi, lại phụ thuộc rất nhiều vào các “mặt cắt thời gian” trên “trục thời gian thứ 3” của nội giới người ta. Chỉ ở những “mặt cắt thời gian” thích hợp, ngẫu nhiên, theo “trục thời gian thứ 3”, các bậc 2 kia mới giúp người ta sáng tạo nghệ thuật và có khoái thú thẩm mỹ.

Như thế, sau các bậc thầy cổ, kim, đông, tây; Nguyễn Quân đã có, đã đưa ra, một kiến giải/đề nghị, về miền “không để hiểu”/“không để tri giác” của con người, nhằm thay thế cho miền “chưa hiểu”/“chưa tri giác” được của “Duy vật biện chứng” về “ý thức”; đồng thời, thay thế luôn cho cõi “vô thức” siêu hình của “Phân tâm học”. Có lẽ, đó là cống hiến lớn nhất của cuốn sách này. Song song với kiến giải/đề nghị đó, tác giả đã “đồ họa hóa” cái cơ chế hình thành miền “không để hiểu”/“không để tri giác” ấy.

II - Con đường của ngôn ngữ

Từ lý thuyết về ngũ quan cùng cơ chế hưởng thụ và sáng tạo nghệ thuật bắt đầu từ 5 cửa vào ấy, Nguyễn Quân đi tiếp sang lĩnh vực ngôn ngữ. Theo anh, “Các từ gốc/từ nguyên là các sản phẩm đào luyện và sự mã hóa đầy tính ngẫu nhiên, các kinh nghiệm đào luyện ngũ quan. Chúng sinh ra ở ngay 5 cửa vào nội giới”... “Các cụm từ... thì sinh ra từ “xúc cảm hỗn hợp” liên giác quan. Rồi sau đó, chúng đi theo trục ký ức, sinh ra các mệnh đề, các kết cấu bên trong của mỗi hệ thống tín hiệu của mỗi ngôn ngữ - cú pháp, từ pháp...” và việc các ngôn ngữ khác nhau không chồng khít lên nhau được chỉ vì chúng “được mã hóa đầy tính ngẫu nhiên, các kinh nghiệm đào luyện giác quan” khác nhau mà thôi. Ngôn ngữ, không thể di truyền được, nên tuy nó độc lập với cơ thể sinh học, nhưng lại là một bộ phận cấu thành cơ thể của người ta đến nỗi phải có cả một trung khu thần kinh điều khiển nó. Rõ ràng, có một “sợi dây chìm” rất mỏng manh, không nhìn thấy được, của ngôn ngữ, nối nó với và song hành với, ngũ quan người ta. “Sợi dây chìm” ấy chính là nơi xuất phát của ngôn ngữ bậc cao - ngôn ngữ văn học - có khả năng động chạm được tới khu vực “không để hiểu”/ “không để tri giác” đã nói, cho nên, dù “ngôn ngữ bất đồng” nhưng vì khu vực “không để hiểu”/“không để tri giác” không bất đồng, văn học nghệ thuật vẫn có thể làm cho các dân tộc “hiểu” nhau, “thông cảm” cho nhau, đỡ bị cô độc và được an ủi. Theo Nguyễn Quân, ngôn ngữ độc lập với cơ thể sinh học (không di truyền được) nhưng khi đã hình thành thì nó là một bộ phận (nhân tạo) của cơ thể, hoạt động như một bộ phận cấu thành cơ thể. Tư duy bằng ngôn ngữ, tư duy thì tồn tại, nên ngôn ngữ tạo nên con người. Ai mất trí nhớ, mất ký ức, không “người” như người khác được nữa, thế là ký ức luôn “hiện tại” cùng ta.

III- Kiến giải về tình yêu và hạnh phúc

Theo Nguyễn Quân, tình yêu song hành với nghệ thuật và trỏ ra rằng, chúng có cơ chế vận hành rất giống nhau - từ 5 cửa vào - ngũ quan - đi qua tầng hầm, tầng 1 và thăng hoa ở tầng thượng (vốn chỉ được phát hiện nhờ những mặt cắt của “trục thời gian thứ 3” một cách ngẫu nhiên mà tần số xuất hiện các mặt cắt này có thể tăng cùng với khả năng kiểm/khám của ngũ quan, tức là cùng với “trình độ” tiến hóa của ngũ quan). Nghệ thuật lớn và tình yêu lớn xuất hiện khi thăng hoa, tạo nên cảm giác đủ đầy, thỏa mãn, hạnh phúc. Ai có nhiều cảm giác hạnh phúc hơn, người đó hạnh phúc hơn những người khác trên đường đi tìm nó. Nguyễn Quân viết: “Nhờ tình yêu, (với) sự hấp dẫn của hai cá thể khác giới, ngũ quan (họ) trở nên tinh nhạy khác thường... Các bậc xúc cảm và liên tưởng cũng mạnh hơn, phức tạp hơn với nhịp độ cao hơn và nhờ vậy nội giới (họ) cũng rộng thêm ra, phong phú, phức tạp hơn (“tâm hồn phong phú hơn”, như cách nói của những người không quan tâm đến cơ chế sinh học của vấn đề!) và người ta thu được nhiều của cải hơn cho kho kinh nghiệm của mình”. Điều này thúc đẩy sự phát triển của ngôn ngữ và vì thế, thúc đẩy sự phát triển của tư duy, bởi vì khi ấy, “ngôn ngữ (mà) tư duy logic là phần chủ yếu ở đó, trở nên nhỏ hẹp và ngắn ngủi, giống như các đường giao thông trở nên không bao quát, chế ngự được toàn bộ phong cảnh nữa...”. Điều đó buộc (người ta) phải phát triển năng lực tư duy (bằng ngôn ngữ), tức là phát triển ngôn ngữ, do sức ép của ngũ quan và nội giới. Khi ngôn ngữ văn học bất lực (hoặc tạm thời bất lực), đã có nghệ thuật thêm vào - “Nghệ thuật thể hiện cái mà ngôn ngữ không thể hiện được. (Nó) cũng bị thúc đẩy nhờ tình yêu (để) mở rộng phong cảnh, mở rộng bản đồ nội giới và ngoại giới”. Từ sự song hành và tương đồng tương đối giữa tình yêu và nghệ thuật, Nguyễn Quân đi tìm cách “giải mã” hạnh phúc. Nguyễn Quân viết: “Nội giới phong phú tĩnh lặng và thông thoáng qua 5 giác quan chính là hạnh phúc”. Và vì, không bao giờ người ta có thể luôn giữ cho 5 cửa kia thông thoáng, cho nên không bao giờ chấm dứt cảnh “vui buồn lẫn lộn” đầy bối rối ở con người. Rõ ràng, hạnh phúc không nguyên khối, chỉ theo “trục thời gian thứ 3” mà có thể có cảm giác hạnh phúc-cả trong tình yêu và văn học nghệ thuật lớn-theo tần suất khác nhau mà thôi. Đó cũng là cách kiến giải rất... “Ghi chú về nghệ thuật”.

*Cũng theo lối kiến giải ấy, Nguyễn Quân bàn sang “Bản chất của nghệ thuật”. “Nghệ thuật nào cũng xuất phát từ sự đào luyện ngũ quan” (cho đến khi biết/có khoái thú thẩm mỹ) - tác giả viết - do đó, chỉ khi con người “dư thừa cảm giác ngũ quan”, mới có hoạt động nghệ thuật. “Dư thừa”, tức là có phần dôi ra, sau khi đã “đủ” cho sinh tồn. Và vì, chỉ ở con người mới có khoái thú thẩm mỹ, nên “nhân đạo là bản chất của nghệ thuật, cái gì phản con người, phủ nhận con người, không thể là nghệ thuật. Cái gì xa lạ với niềm vui và nỗi lo sợ của con người (ái, ố, nộ, hỷ, ai, lạc) đều phi nghệ thuật”.

Ngoài ra, “Ghi chú về nghệ thuật” còn bàn nhiều việc khác, ví như “Cơ năng xúc cảm và cơ chế đồng cảm”, “Hiện thực và nhân đạo”, “Khoa học và nghệ thuật”... rất khó có thể viết hết trong một bài báo. Nhưng chỉ bằng những việc đã nêu, có thể nói rằng, đây là một trong những cuốn sách “gối đầu giường” của những người thực sự muốn làm văn học - nghệ thuật và làm phê bình văn học - nghệ thuật, đặc biệt là với những ai muốn làm phê bình. “Đào luyện” ngũ quan vốn là việc của mỗi người, nhưng vì “Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” (Các Mác), nên xã hội cần phải tổ chức ra các điều kiện tốt đẹp cho việc “đào luyện” ấy. Kết luận “phái sinh” này từ cuốn sách, đúng hơn là từ phần đầu của nó, chẳng đã rất thú vị đó sao?

đỗ trung lai

Nguồn Lao Động: https://laodong.vn/lao-dong-cuoi-tuan/sach-cu-nguoi-cu-nhung-moi-tu-lau-632026.ldo