Thơ Văn Trọng Hùng
Văn hiến trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc chùm thơ của Văn Trọng Hùng, một nhà thơ, kịch tác gia đã có những tập thơ, vở kịch tạo ấn tượng sâu sắc với công chúng Bình Định và cả nước. Là người từng trải, đã vượt qua nhiều trận mưa bom, bão đạn trong những năm kháng chiến và gắn bó nhiều năm với hoạt động văn hóa thời bình, Văn Trọng Hùng có cái nhìn đa chiều, sâu sắc với cuộc sống. Bởi vậy, thơ và kịch của ông giàu suy tư, trăn trở, có tính phản biện và gợi mở lớn lao. Đã có 3 Luận văn Thạc sĩ được bảo vệ thành công với đề tài thơ, kịch của ông.
Nghĩ về Trần Thủ Độ
Nhà thơ, nhà biên kịch Văn Trọng Hùng
Tên thật: Văn Trọng Hùng.
Bút danh: Văn Trọng Hùng.
Sinh năm 1954
Quê quán: Xã Ân Tín, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
Chỗ ở hiện nay: Thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam; Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam; Hội viên Hội Nghệ sỹ Sân khấu Việt Nam; Hội viên Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam; Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Bình Định.
Quá trình hoạt động, công tác:
– Năm 1968: Tham gia hoạt động cách mạng.
– Năm 1972: Thoát ly lên chiến khu, làm công tác võ trang tuyên truyền rồi hoạt động trong ngành văn hóa – thông tin.
– Năm 1997- 2008: Giám đốc Sở Văn hóa và Thông tin Bình Định.
– Năm 2008 – 2014 : Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bình Định.
– Năm 2014 đến nay: Giám đốc Văn phòng đại diện Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc tại Bình Định.
Tác phẩm đã xuất bản:
– Dạo khúc nhân tình: Tập thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 1991;
– Bóng trúc: Tập thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2001.
– Đi tìm chân chúa: Tập kịch bản, Nxb. Sân khấu, 2004.
– Đối ảnh: Tập thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2006.
– Hầu chuyện tiền nhân: Thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2012.
- Khúc ca bi tráng: Tập kịch, Nxb. Sân khấu, 2017.
Những kịch bản đã dàn dựng:
+ Nước mắt Diêm vương (1992);
+ Tiết Giao trả ngọc (1993);
+ Phong thần (1994);
+ Đi tìm chân chúa (1997);
+ Anh hùng với giai nhân (Viết chung với Sỹ Chức, 1999);
+ Luận anh hùng (2003);
+ Nhìn lại một vương triều (2011);
+ Đêm sáng phương Nam (Viết chung với Đoàn Thanh Tâm, 2012);
+ Khúc ca bi tráng (2013);
+ Hồn tháp (2016);
+ Nước non cửa phật (2016).
+ Quan khiêng võng (2018 – đang dàn dựng)
Giải thưởng văn học, nghệ thuật:
– 12 giải thưởng về kịch bản và vở diễn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, trong đó có 2 huy chương vàng của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
– Giải tác giả kịch bản Văn học xuất sắc nhất Hội thi sân khấu chuyên nghiệp Tuồng và Dân ca toàn quốc năm 2013 do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức.
- Giải A của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam cho tác giả kịch bản sân khấu, năm 2016.
– 8 giải A Giải thưởng Đào Tấn – Xuân Diệu (5 giải A kịch, 3 giải A thơ), các lần I (1991-1995), lần II (1996-2000), lần III (2001-2005), lần IV (2006-2010), lần V (2011-2015) của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định.
Phòng thông tin tư liệu -Thư viện tỉnh Bình Định
“Hỏi ai thề trước mặt vua
Đầu thần chưa rụng thì chưa nên hàng”
Trải tháng năm
đến nay ông vẫn là vị Thái sư kỳ lạ nhất
Sáng như nhật nguyệt - nỗi niềm dân nước
Mờ tựa sương sa - đạo lý luân thường!
Ông là ai mà chỉ một cuộc hôn nhân,
đã thay đổi cả đế vương
Nhà Lý thành nhà Trần không đường tên mũi đạn
Trị nước võ văn hưng thịnh
Lo dân cơm áo sách đèn…
Ông là ai mà độc đoán, bạo tàn
Diệt người diệt cho tận gốc
Kiếm đã tuốt là không thương tiếc
Phán quyết duyên tình, phán quyết cả vua, tôi?!
Ta suy nghĩ về ông công, tội đầy vơi
Mờ mờ tỏ tỏ
Vẫn sáng lên tài trí một đại thần,
Sáng gương người tạo lập triều Trần
Triều của muôn dân ba lần đuổi giặc
Hào khí Đông A không bao giờ tắt!
Một chút lạ lùng ta chưa biết
Ông không biết chữ
mà sao biết dựng một vương triều?!
Đêm ấy ở Côn Sơn
Khi Nguyễn Trãi được minh oan
Thị Lộ vừa cười vừa khóc
Nàng không dám trở về rừng trúc
Cùng những oan hồn lang - thang - ở - Thăng Long
Cả kinh thành đèn được đốt nhiều hơn
Trăm họ mừng vui bàn tán…
Không dám nhìn ánh sáng
nàng đi về phía những làng xa
Sao đã yêu một bậc tài hoa
Lại không xa được một quân vương lỗi đạo
Phải danh vọng làm ta không tỉnh táo
Hay ta đã quá yêu mình?
Thị Lộ
khuất dần vào cõi u linh.
Ở Côn Sơn đêm ấy vẫn lặng yên
Nguyễn Trãi chong đèn đọc sách
Về khuya mưa như trút nước
Lê Lợi đến thăm
Nguyễn Trãi đã đi nằm!
Lời Mỵ Châu
Gả con cho Trọng Thủy là cha
Hẹn hò với Trọng Thủy cũng từ cha
Vì cha không nói với con người con yêu là giặc
Người yêu nào khi chia xa mà chẳng hẹn ngày gặp mặt
Nên những chiếc lông ngỗng kia mới khắc khoải ở dọc đường
Con không trách cha trút giận một đường gươm
Dẫu là vua, cha cũng chỉ người trần mắt thịt
Kẻ đáng trách là thần Kim Quy
Đã tặng nỏ thần cho cha, sao không giúp cha cách gìn giữ nỏ
Lại bảo con là giặc?!
Con hóa ngọc trắng trong mà oan nghiệt
Cha ơi, con không cần người đời khen, chê, xót xa, thương tiếc
Chỉ muốn là Mỵ Châu thuở trước
Mỵ Châu bé bỏng của cha
Mỵ Châu chưa gặp Trọng Thủy bao giờ!
Ta cúi đầu trước tình yêu của nàng
Ta cúi đầu trước lòng chung thủy của nàng
Bồng con chờ chồng mà hóa đá
Nhân gian kim cổ được mấy người?
Những áng mây vì nàng trôi chậm lại
Những người đàn bà vì nàng tiết hạnh hơn
Những đóa hoa vì nàng bốn mùa thao thức
Đất nước có nàng thêm những trang thơ.
Ta chỉ thương đứa bé kia
Đứa bé chưa biết mặt cha,
Chưa biết tình yêu,
lòng chung thủy
Sao
phải hóa đá
cùng nàng?!
Thánh Gióng
Từ người mẹ nghèo sinh ra
Từ hạt cơm làng vụt lớn
Từ sắt thép, tre làng đánh giặc
Giặc tan lại bay về trời
Truyền thuyết sáng ngời trong lòng dân muôn thuở.
Ta cứ nghĩ vẩn vơ
Ngày ấy nếu ông làm vua
Rồi con cháu ông làm vua
Không biết được - thua
và liệu bây giờ
có vết nhơ nào để lại?
Phải chi Kim Trọng là ta
Thì nàng đâu phải phong ba một đời
Dẫu không khuấy nước chọc trời
Lật nhào cung điện, đổi ngôi sơn hà
Thì nàng vẫn mãi bên ta
Tiết trinh đâu phải chỉ là tiết trinh!
Thúy Vân trăm đẹp nghìn xinh
Vẫn không thay được bóng hình Kiều xưa
Yêu như ai đó bằng thừa
Lấy em, thay chị lại vừa được quan!
Ta đây quyết chí tìm nàng
Dẫu xơ xác nhụy, dẫu tàn tàn hương
Thủy chung vẫn vẹn yêu thương
Thói đời như lớp mờ sương sá gì!
Thơ, đàn một gánh ta đi
Cách xa cái chốn thị phi tầm thường…
Mà thôi, thôi đã đoạn trường
Phải chi Kim Trọng đường đường là… ta!
Hầu chuyện Nguyễn Hữu Chỉnh
- Cầm bút là ông
Cầm gươm là ông
Nhà thơ là ông
Chính khách cũng là ông
Cánh chim bằng ngang dọc cả Bắc Nam?
- Nhưng đời ta vinh nhục long đong
Thế sự nhân tình mấy ai đã hiểu!
- Ai không hiểu ông?
- Bạn tri giao không hiểu
Bọn chép sử không hiểu
Quê hương ta không ít người bảo ta có tội
Các ngươi cũng chỉ biết ta là kẻ lộng quyền phản bội
Là người gian ngoa đen tối
Mà không thấy ta có lòng phò tá Tây Sơn
Ai là người giúp chúa lấy Phú Xuân
Ai dâng kế phò Lê diệt Trịnh
Ai trình vua gả công chúa Ngọc Hân
Để mối tình kia vang vọng ngàn năm
“Ai tư vãn” đời đời bất tử?
- Vậy sao ông đòi đất, đòi trời, chống vua, chống chủ
Làm chúa Trịnh thứ hai ở đất Hà Thành?
- Bởi ta không thể cúi đầu trước bọn vô danh
Khi Tây Sơn hai lần bỏ ta trên đất Bắc
Ta muốn có ngọn cờ sắc khác
Một giang sơn, trăng gió của riêng ta!
- Bây giờ ba thế kỉ đã đi qua
Mọi chuyện trở thành quá vãng
Sao ông vẫn ở nơi này uống rượu múa gươm?
- Vì ta đã là người của đất Thăng Long!
Gặp Võ Tánh ở thành Hoàng Đế
Chẳng oai nghiêm như lúc giữ thành
Không kiếm lệnh cũng không mũ mão
Ông khoác nhẹ tấm áo choàng trứng sáo
Mắt mơ màng cùng trời đất An Nhơn
- Cuộc chiến đi qua đã mấy trăm năm
Sao ông còn ở lại đây không về quê cũ?
- Người trung nghĩa đã thành bất tử
Thì nơi nào chẳng hóa quê hương!
- Là tướng của Gia Long tử chiến với Tây Sơn
Sao ông không giống kẻ tiểu nhân kia trả thù hèn hạ
Lại dừng ngựa cho Đồ Bàn yên ả
Đốt cháy mình để bá tánh bình an?(*)
- Một đời ta vì trăm họ, giang san
Dẫu khác chúa nhưng không khác lòng yêu dân, yêu nước!
Mà thôi. Trải năm tháng những gì mất, được
Mặc đời sau công, tội luận bàn
Ngươi nhìn kia Trần Quang Diệu đang sang
Rượu đã sẵn. Và… trăng đã đến!
__________
(*) Võ Tánh trấn giữ thành Hoàng Đế (Bình Định), bị tướng của Tây Sơn là Trần Quang Diệu vây hãm nhiều ngày. Võ Tánh đề nghị Trần Quang Diệu không hại đến tính mạng bá tánh và binh lính trong thành thì ông sẽ mở cửa thành và tự thiêu. Trần Quang Diệu y lời và đã an táng ông theo nghi thức trọng thể.
Thị Hến
Nghe em sắm vai Thị Hến
Bỏ cơm anh đi xem tuồng
Chao ôi, người thật thà như đếm
Mà nhập vào Thị Hến cũng điêu ngoa.
Đốp chát trùm sò, dịu ngọt sai nha
Chân ngoặc thầy đề, mắt đưa tình quan huyện
Giữa công đường em lả lơi chao lượn
Chốn trang nghiêm tối sáng cứ chập chờn.
Thương các quan bà khuya khoắt đêm hôm
Vượt tiếng cú kêu truy chồng ong bướm
Em đùa chi đau vậy Hến
Khiến các quan phải tề tựu… góc buồng!
Kịch hết rồi tiếng cười hãy còn vương
Em lại là cô diễn viên hiền dịu
Chỉ có điều này anh chưa hiểu
Sau đêm ấy rồi, Thị Hến sẽ ra sao?
Hồ Quý Ly
Chữ Nôm thay chữ Hán
Tiền giấy thay tiền đồng
Minh đạo thay Lão, Khổng
Tuốt kiếm dựng non sông.
Lệnh xuống phương Nam mở
Chiếu chỉ giảm điền trang
Hạn nô ban sắc luật…
Tất cả vì giang san.
Cơ nghiệp vẫn sụp đổ
Đất nước thuộc ngoại bang
Phải chăng mưu lược đủ
Thiếu kế sách dân an?
Chiều nay thăm thành cũ
Tây Đô nhuốm điêu tàn
Nhắm mắt nhìn điện ngọc
Dậy nỗi buồn mang mang.
Phỏng vấn Đào Duy Từ
- Ngày ấy nếu không bị đuổi khỏi trường thi,
Người có vào Nam tìm chân chúa?
Chỉ là cớ
Chân chúa ở đâu mà tìm!
- Ngày ấy nếu làm quan cho chúa Trịnh,
Người có đắp lũy Trường Dục?
Chỉ là một cách,
Lũy ở lòng dân!
- Ngày ấy gặp Sãi vương nghe nói chúa rất quý Người?
Chỉ là vương sách,
Vì chúa cần ta!
- Người nghĩ gì về chặng đường mình đã đi qua?
Tốt, xấu ở mọi nơi
- Người khuyên gì lớp hậu sinh chúng tôi?
Đừng bước qua sự thật!
Hỏi chuyện Lý Chiêu Hoàng
- Từ ngôi vua bỗng thành Hoàng hậu
Hoàng hậu thành công chúa
Công chúa thành phu nhân...
Bà có buồn tủi oán than?
- Những chức ấy không phải của ta
Cả ngôi báu kia ta cũng chỉ ngồi chứ phải đâu thiên tử!
- Vậy điều gì làm bà xót xa giận dữ?
- Ta thương phụ hoàng ta
người có xác không hồn
phải bỏ ngôi bỏ vợ.
Ta buồn mẫu hậu ta
Người đàn bà dễ quên duyên quên nợ
Và ta trách nhà vua bạc tình kia - người đã cùng ta một thuở...
- Bà có day dứt khi nhà Lý lụi tàn tan vỡ
Nguyên do kia cũng có từ bà?
- Thời vàng son của nhà Lý đã qua
Không vào tay nhà Trần cũng vào tay kẻ khác.
- Nếu dương trần có ngày tiếp bước
Nỗi niềm kia bà mong ước điều gì?
- Ta mong được yêu và được làm dân dã!
Hai câu hỏi tháp Chàm
“Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than.”
(Chế Lan Viên)
- Người trầm mặc cả ngàn năm lịch sử
Như nhà sư thiền định đuổi sân si…
Bao mưa nắng vẫn lặng yên bóng tháp
Giữa đất trời người muốn nói điều chi?
- Đất nước có thể mất đi
Nhưng dân tộc vẫn là mãi mãi
Những dục vọng làm khổ đau nhân loại
Thường bắt nguồn từ ngôn ngữ cao sang!
- Sao nhìn người không thấy thuở vàng son
Chỉ Linga - Yoni thánh thần và vũ nữ?
- Ta chỉ mang những gì bất tử
Để người đời suy nghiệm cõi nhân gian
Dẫu ngàn năm… lịch sử cứ sang trang!
Nghĩ về vua Tự Đức
“Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi”
Phải chi ông chỉ làm thơ
Giận Cao Bá Quát mấy bồ văn chương
Phê Nguyễn Du chữ can thường
Say cùng mấy điệu hát tuồng rồi… thôi.
Ngôi cao mời kẻ chọc trời
Dẫu chiến bại cũng sáng ngời nước Nam
Vinh gì mũ áo xênh xang
Lại nhường giặc cả giang san lạc hồng…!
Giở trang sử cũ – buồn lòng
Tài hoa hèn yếu sao trong một người!