Thời gian và vận hội không chờ đợi chúng ta

Đó là khẳng định của ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ KH-ĐT tại Diễn đàn cải cách và phát triển Việt Nam năm 2018, tổ chức ngày 5/12 tại Hà Nội. Với chủ đề 'Tầm nhìn mới, động lực mới cho tăng trưởng kinh tế trong kỷ nguyên mới'.

Bộ trưởng Nguyễn Trí Dũng đánh giá về những thành tựu mà Việt Nam đạt được của 30 năm đổi mới là: iện mạo kinh tế ViệtNam đã thay đổi hẳn, đơìsống người dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo đói giảm mạn. Việt Nam đã trở thànhnước có mức thu nhập trung bình và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tếthế giới.

Tầm vóc, vị thế và uytín của Việt Nam trên trường quốc tế từng bước cải thiện, cộng đồng quốc tế ghinhận và đánh giá cao. Đến hết năm 2017, quy mô dân số đạt khoảng 94 triêụngười, đứng thứ 14 trên thế giới; quy mô nền kinh tế đạt khoảng 220 tỷ USD, xếpthứ 34; thu nhập bình quân đầu người đạt trên 2.300 USD; tốc độ tăng trưởngkinh tế năm 2017 đạt 6,81% và dự kiến năm 2018 có thể đạt cao hơn; chỉ số pháttriển con người (HDI) đứng thứ 116/189 quốc gia; hệ số bất bình đẳng về phânphối thu nhập (GINI) ở mức tích cực, 0,43 điểm.

Các chỉ số về năng lực cạnhtranh quốc gia và môi trường kinh doanh đạt nhiều tiến bộ đáng khích lệ. Năm2017, năng lực cạnh tranh xếp hạng 55/137, tăng 5 bậc; môi trường kinh doanhxếp hạng 68/190, tăng 14 bậc; đổi mới sáng tạo xếp hạng 47/127, tăng 12 bậc.Trong nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp, Việt Nam đã vươn từ vị trí thứba năm 2016 lên vị trí thứ nhất.

Đạt được kết quả tích cực nêutrên là nhờ sự nỗ lực không ngừng của cả hệ thống chính trị, của cả xã hội,cộng đồng doanh nghiệp và sự hợp tác, hỗ trợ hiệu quả của cộng đồng quốc tế,nhất là các đối tác phát triển.

Nắm bắt cơ hội vàng

Nói về những thách thức của nền kinh tế Việt những nămtới, Bộ trưởng Nguyễn Trí Dũng nhận định rằng: Hứa hẹn cả những thách thức và cơ hội đan xen.

Doanh nghiệp tư nhân đóng góp vào phát triển kinh tế

Một số kịch bản kinhtế đã được đưa ra với triển vọng tăng trưởng trung bình của Việt Nam ước đạt6,85% trong các năm 2018-2020. Mặc dù vậy, Chính phủ vẫn luôn ý thức được nhữngthách thức và khó khăn, cả những vấn đề nội tại cũng như những tác động kháchquan từ bên ngoài có thể ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.

Bộ trưởng nhấn mạnh: Câuhỏi lớn đặt ra hiện nay là làm thế nào để tận dụng triệt để được mọi cơ hội,nhất là cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, vượt qua được các khókhăn, thách thức, làm rõ các động lực tăng trưởng mới với tầm nhìn phát triểntrong kỷ nguyên mới gắn liền với tư duy đổi mới, cải cách để tìm ra phương ántốt nhất cho bài toán tăng trưởng và phát triển của Việt Nam.

Phảihướng tới tăng trưởng bứt phá, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở tận dụngthành tựu khoa học công nghệ của nhân loại, đưa Việt Nam trở thành một nướccông nghiệp hiện đại, có nền kinh tế thị trường tiên tiến, phát triển bền vữnglấy mục tiêu phát triển con người là trọng tâm, đảm bảo thực hiện các mục tiêudân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh

Được biết, tháng 2/2016, Chính phủ Việt Nam và Ngân hàngThế giới đã công bố Báo cáo Việt Nam 2035.

Báo cáo đã đưara khát vọng của Việt Nam đến năm 2035, đó là: Thịnh vượng, sáng tạo, công bằngvà dân chủ với mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao,đạt 10.000 USD/người/năm tính theo giá hiện hành.

Khát vọng nàyđược thực hiện thông qua chương trình cải cách thể chế và các chính sách hỗ trợdựa trên ba trụ cột chính: Thịnh vượng về kinh tế đi đôi với bền vững về môitrường; Công bằng và hòa nhập xã hội; Nâng cao năng lực và trách nhiệm giảitrình của Nhà nước".

Và Báo cáo Việt Nam2035 đã trở thành một tàiliệu tham khảo có giá trị đối với công tác hoạch định chính sách phát triểnkinh tế - xã hội của Việt Nam, đóng góp tích cực vào việc cụ thể hóa các chủtrương, đường lối của Đảng và Nhà nước.

Tại Hội nghị APEC cuối năm2017, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định tầm nhìn phát triểncủa thập niên tới đó là đưa Việt Nam trở thành một nền kinh tế năng động, dưạtrên nền tảng đổi mới sáng tạo, có khả năng phát triển nhanh và bền vững.

Đó cũng chính làquan điểm, chiến lược phát triển tất yếu để nền kinh tế Việt Nam có đủ nội lựcbứt phá, vươn lên trong chặng đường tiếp theo, bắt kịp các quốc gia đã có nềntảng phát triển vững vàng trong khu vực.

Bộ trưởng Nguyễn Trí Dũng đánh giá: Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễnra nhanh chóng, có tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hôịcủa tất cả các quốc gia trên toàn thế giới, làm thay đổi mạnh mẽ từ tổ chức sảnxuất, cung ứng dịch vụ, phương thức kinh doanh đến cách thức tiêu dùng, cáchthức giao tiếp, thậm chí làm thay đổi cả con người.

Chúng ta đangđứng trước yêu cầu lịch sử là phải đổi mới, cải cách mạnh mẽ, căn bản để tiếptục phát triển, đi lên. Vì nếu không thực hiện đồng thời cải cách và pháttriển, chúng ta sẽ ngay lập tức bị tụt hậu so với thời đại". Và đây là thời điểm “vàng”, bởi chúng ta đang đứng trước những cơhội quý.

Đó là cơhội về tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao, tỷ lệ qua đào tạo ngày càngtăng; cơ hội về hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; cơ hội tiếp cận và tậndụng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; cơ hội về dòng vốn đầu tư từ cácnền kinh tế phát triển, từ các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia ngày càngchảy nhiều hơn vào các nước phát triển và các nền kinh tế mới nổi...

Không thực hiện đồng bộ là tụt hậu

Thời gian và vậnhội sẽ không chờ đợi chúng ta! Chúng ta không thể không không nắm bắt lấy nhữngcơ hội quan trọng này. Chúng ta phải cải cách và phát triển với tất cả sự quyếttâm, với sức mạnh mà hơn 30 năm trước chúng ta đã làm được.

Tuy nhiên, Theo Bộtrưởng Nguyễn Trí Dũng: Đểlàm được điều này, chúng ta cần phải ý thức được những vấn đề khó khăn, tháchthức phải giải quyết trong giai đoạn tới, nhất là những vấn đề về giải quyếtmối quan hệ giữa cải cách và phát triển, trong cả nhận thức và hành động;

Dự báo và ứngphó được với những tác động bất lợi của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tưtrong bối cảnh phải: một mặt, phát hiện và tận dụng được những cơ hội do cuộccách mạng này đem lại, nhất là trong các lĩnh vực công nghệ; cải thiện cho đượcnhững chỉ số cấu thành năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam, nhất là về môitrường pháp lý, môi trường kinh doanh, hạ tầng.

Tiếp cận vơícông nghệ thông tin và truyền thông; huy động tối đa mọi nguồn lực cho pháttriển, nhất là nguồn lực của khu vực tư nhân, nguồn nhân lực chất lượng cao;phát triển khu vực kinh tế tư nhân năng động, hiệu quả, có năng lực cạnh tranhtoàn cầu phải trở thành động lực quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế đấtnước;

Liên kết, hợptác cùng phát triển giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài;ứng phó hiệu quả với tác động của biến đổi khí hậu; giải quyết tốt các vấn đềxã hội, đảm bảo phát triển bền vững...; và mặt khác, giảm thiểu được nhữngthách thức, tác động tiêu cực của cuộc cách mạng này, nhất là việc sử dụng ngàycàng rộng rãi robot thay thế cho con người.

Trên cơ sở xácđịnh rõ nền kinh tế đang ở đâu trong quá trình phát triển, ý thức được nhữngkhó khăn, thách thức, nhận diện và tận dụng triệt để được mọi cơ hội, dù là nhỏnhất, cho cải cách và phát triển, chúng ta cần tập trung xác định những độnglực quan trọng nhất cho tăng trưởng và phát triển.

Sản xuất nông nghiệp được công nghiệp hóa

Trong đó, động lực tăngtrưởng nền móng của nền kinh tế Việt Nam chính là cải cách thể chế kết hợp vơítập trung nâng cao năng suất lao động, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của doanhnghiệp thông qua các chính sách, giải pháp phù hợp, hữu hiệu, nhất là thúc đâyử́ng dụng công nghệ cao; phát triển kinh tế tư nhân trong mối quan hệ hợp tácchặt chẽ với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; phát triển nguồn nhân lực, đâylà yếu tố quyết định sự thành công và hiệu quả của tất cả những động lực khác.

Thanh Thư

Nguồn Doanh Nghiệp: http://doanhnghiepvn.vn/kinh-te/thoi-gian-va-van-hoi-khong-cho-doi-chung-ta/20181205062724613