Thực thi FTA phải song hành với kiểm soát độ mở của nền kinh tế

ĐB Trần Hoàng Ngân (TPHCM), Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nhận định, từ khi thực thi các FTA thì xuất khẩu tăng rất nhanh, dẫn đến độ mở kinh tế quá lớn (tương đương 200% GDP), do đó cần đặc biệt lưu ý kiểm soát độ mở của nền kinh tế.

ĐB Trần Hoàng Ngân (TPHCM), Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội

ĐB Trần Hoàng Ngân (TPHCM), Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội

Sáng 22-7, tại Nhà Quốc hội, Đoàn giám sát việc thực hiện các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam là thành viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có cuộc làm việc với các bộ có liên quan.

Thừa ủy quyền Chính phủ, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh báo cáo tại phiên họp. Ông Trần Quốc Khánh cho biết, trong vòng 1 năm qua, kể từ khi chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam việc thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đạt kết quả tích cực. Về tăng trưởng xuất khẩu, ngoại trừ Australia và Singapore giữ mức tương đương (do Việt Nam đã có quan hệ FTA trước đó), xuất khẩu sang các thị trường khác trong năm 2019 đều tăng mạnh.

Trong 6 đối tác đã thực thi CPTPP, xuất khẩu của Việt Nam sang Canada tăng mạnh nhất (29,8%), sau đó là Mexico (26,3%). Việt Nam đã cấp 21.163 C/0 mẫu CPTPP cho hàng hóa Việt Nam xuất khẩu đi các nước thuộc Hiệp định với tổng giá trị hàng hóa gần 600 triệu USD. Tuy nhiên, những cơ hội từ CPTPP vẫn chưa được khai thác hết tiềm năng. Tổng hợp báo cáo của các địa phương, hiện mới có khoảng 40% số tỉnh thành có hoạt động xuất nhập khẩu với các nước CPTPP. Số lượng doanh nghiệp quan tâm đến thị trường các nước CPTPP còn khiêm tốn.

Cùng kỳ, việc thực hiện các hiệp định thuộc thẩm quyền phê chuẩn của Chủ tịch nước hoặc phê duyệt của Chính phủ cũng khá tích cực. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường có FTA năm 2019 là 123,11 tỷ USD (năm 2004, Việt Nam mới có hai đối tác FTA là ASEAN và Trung Quốc với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 7 tỷ USD). Tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam sang các thị trường đối tác FTA của Việt Nam năm 2019 là 186 tỷ USD.

Phân tích cụ thể hơn, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh nhận định, FTA với những đối tác có nền sản xuất mang tính bổ sung với Việt Nam như Nhật, Australia, Newzealand, Chile đem lại tác động tích cực hơn. “Việt Nam ngày càng xuất siêu sang các thị trường này sau khi FTA có hiệu lực”, ông Khánh nêu ngắn gọn.

Mặc dù vậy, về tổng thể, Việt Nam vẫn nhập siêu từ các thị trường có FTA do hai thị trường nhập khẩu lớn nhất hàng Việt Nam là Hoa Kỳ và EU đều chưa có FTA được đưa vào thực thi. Với các đối tác có nền sản xuất mang tính bổ sung thấp, thậm chí cạnh tranh với Việt Nam (như đa số các nước ASEAN và đặc biệt là Trung Quốc), nhập siêu của Việt Nam có xu hướng gia tăng.

Khẳng định tác động tích cực của FTA với nền kinh tế là cơ bản, song ĐB Trần Hoàng Ngân (TPHCM), Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nhận định, từ khi thực thi các FTA thì xuất khẩu tăng rất nhanh, dẫn đến độ mở kinh tế quá lớn (tương đương 200% GDP), do đó cần đặc biệt lưu ý kiểm soát độ mở của nền kinh tế.

“Các thị trường nước ngoài có vấn đề thì với độ mở lớn như thế, kinh tế vĩ mô của Việt Nam sẽ bất ổn”, ĐB Trần Hoàng Ngân phát biểu. Đề cập đến vai trò của Quốc hội trong ký kết và thực thi các FTA, ĐB Trần Hoàng Ngân cho rằng Quốc hội cần cử các chuyên gia có kinh nghiệm tham gia ngay từ khâu đàm phán, bởi “có Hiệp định sau khi ký rồi, ĐBQH đi giám sát thấy bực bội lắm, là tại sao lại ký như thế".

Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cũng chia sẻ quan điểm về việc kiểm soát độ mở của nền kinh tế và cho rằng điều này không đi ngược lại chủ trương hội nhập. Những việc quan trọng cần làm hiện nay, theo ông, là cập nhật chiến lược FTA, lựa chọn đối tác đàm phán một cách thận trọng, có nguyên tắc và thúc đẩy tiêu dùng trong nước.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Nguyễn Mạnh Tiến thì lưu ý đến thông tin nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc tiếp tục xu hướng gia tăng và đề nghị Bộ Công Thương “đi đầu trong hoạch định chính sách để giải bài toán nhập siêu với các đối tác cạnh tranh với Việt Nam”.

Đáng lưu ý, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh, Phó Trưởng đoàn giám sát bày tỏ quan ngại về việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin về doanh nghiệp nhà nước theo Hiệp định CPTPP.

Ông Vũ Hồng Thanh nói: “Qua giám sát về cổ phần hóa, thoái vốn của doanh nghiệp nhà nước thì không ít doanh nghiệp sau cổ phần hóa rất lười công bố thông tin”. Theo Hiệp định, Bộ Công Thương là cơ quan chịu trách nhiệm cung cấp danh sách các doanh nghiệp của Việt Nam thuộc đối tượng điều chỉnh của CPTPP đến tất cả các quốc gia thành viên CPTPP.

Chủ nhiệm Vũ Hồng Thanh nhấn mạnh, Bộ Công Thương cần đánh giá thêm về nội dung này, nhất là khi theo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), doanh nghiệp nhà nước gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết thay vì phải nắm giữ 100% vốn điều lệ mới là doanh nghiệp nhà nước như quy định trước đây.

Còn theo Phó Trưởng đoàn giám sát Nguyễn Văn Giàu, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, một trong những nguyên nhân hạn chế trong quá trình thực thi FTA là tính sẵn sàng của các doanh nghiệp trong nước còn quá thấp, rất chậm được cải thiện.

Theo chương trình hoạt động giám sát, Đoàn Giám sát sẽ còn một số buổi làm việc với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và một số doanh nghiệp về việc thực hiện các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên.

Từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007 tới nay, Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 16 FTA. Trong số 13 FTA đã ký kết thì 12 FTA đã có hiệu lực, 1 FTA đã ký kết và phê chuẩn nhưng chưa có hiệu lực và 3 FTA đang đàm phán.

ANH PHƯƠNG

Nguồn SGGP: http://sggp.org.vn/thuc-thi-fta-phai-song-hanh-voi-kiem-soat-do-mo-cua-nen-kinh-te-674501.html