Tổ chức khoa học công nghệ tự chủ: Vẫn cần tháo gỡ khó khăn

Trong khuôn khổ chuỗi sự kiện chào mừng ngày KHCN Việt Nam 18/5, sáng 16/5, Bộ Công Thương đã tổ chức Hội thảo Cơ hội, thách thức và bài học kinh nghiệm của các viện nghiên cứu thuộc Bộ Công Thương trong quá trình chuyển đổi và thực hiện cơ chế tự chủ.

Nhận diện khó khăn

Việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với tổ chức KH&CN công lập có 02 dấu mốc quan trọng, dựa trên 02 căn cứ pháp lý hướng dẫn việc thực hiện: Giai đoạn 2005 - 2015, thực hiện theo quy định tại Nghị định 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 và từ năm 2016 đến nay, thực hiện theo quy định tại Nghị định 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016.

Thứ trưởng Cao Quốc Hưng (giữa) chủ trì Hội thảo

Thứ trưởng Cao Quốc Hưng (giữa) chủ trì Hội thảo

Theo đó, đến thời điểm cuối năm 2015, tất cả các tổ chức KH&CN thuộc Bộ Công Thương đều được chuyển đổi mô hình hoạt động theo qui định của Nghị định 115. Thời điểm hiện tại, Bộ Công Thương còn quản lý 22 viện (do 2 viện chiến lược sáp nhập và Viện Bông Nha Hố sang Bộ NN&PTNT), trong đó có 01 viện chiến lược và 21 viện chuyên ngành và một nửa trực thuộc Bộ, một nửa trực thuộc các tập đoàn, tổng công ty. Trong số này có 03 viện đã cổ phần hóa và hoạt động theo mô hình doanh nghiệp KH&CN.

Đối với việc thực hiện cơ chế tự chủ của các tổ chức KH&CN công lập theo quy định tại Nghị định 54, trên cơ sở phương án do các đơn vị trình lên, Báo cáo của Vụ KH&CN cho thấy, trong 11 viện trực thuộc Bộ có: 01 viện đảm bảo chi thường xuyên và đầu tư; 07 viện đảm bảo chi thường xuyên; 03 viện đảm bảo một phần chi thường xuyên và 01 viện được nhà nước đảm bảo hoàn toàn chi thường xuyên (là Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách Công Thương).

Bà Kiều Nguyễn Việt Hà - Vụ KHCN, Bộ Công Thương trình bày báo cáo tình hình triển khai việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị thuộc Bộ

Chủ trì Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng chia sẻ, việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 115 đã có những tác động tích cực tới hoạt động của các Viện, giúp các Viện tăng cường tính tự chủ và chủ động, tạo cơ hội hợp tác, liên doanh phát triển nghiên cứu khoa học, cung cấp dịch vụ và phát triển sản xuất. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, quá trình chuyển đổi của các đơn vị cũng gặp phải không ít những khó khăn mà nguyên nhân cốt lõi chính là việc thiếu đồng bộ về mặt cơ chế chính sách.

Là một mô hình được đánh giá cao về tính hiệu quả khi chuyển sang hoạt động tự chủ, Công ty CP Viện Máy và Dụng cụ Công nghiệp (IMI) cũng có rất nhiều vướng mắc. TS.Đỗ Văn Vũ – Chủ tịch HĐQT IMI cho biết, từ khi chuyển sang mô hình doanh nghiệp KH&CN công ty cổ phần, IMI không được cấp bằng tiến sĩ. Đây là một vướng mắc vô cùng lớn mà Viện tha thiết mong muốn các cơ quan chức năng có thẩm quyền xem xét lại. Theo ông Vũ, các viện trước kia có chức năng đào tạo tiến sĩ thì khi chuyển sang doanh nghiệp KHCN vẫn cần được giữ nguyên chức năng này.

Đặc biệt, khi cổ phần hóa các doanh nghiệp KHCN cần có cơ chế riêng, không nên tính khấu hao phòng thí nghiệm vào giá trị doanh nghiệp. Đồng quan điểm này, ông Đặng Văn Sơn – Viện trưởng Viện Công nghiệp giấy và xenlulose cho rằng, phòng thí nghiệm chiếm đến 40-50% giá trị tài sản, nhưng chủ yếu dùng để nghiên cứu, rất khó tạo ra doanh thu và lợi nhuận. Do đó, khi cổ phần hóa đưa vào khấu hao như các doanh nghiệp bình thường khác thì không đơn vị nào chịu nổi, lớn như vậy nên cứ đưa vào là lỗ, tạo gánh nặng rất lớn cho doanh nghiệp.

Hay như việc yêu cầu xây dựng quỹ lương của doanh nghiệp tự chủ. Ông Hoàng Tiến Dũng – Viện trưởng Viện Năng lượng cho rằng, việc qui định “3 lần tiền lương” như hiện nay thực sự không thể giúp doanh nghiệp giữ được người tài do mức thu nhập quá thấp. Việc qui định các đơn vị công lập tự chủ như viện mỗi đơn vị chỉ được mua 2 chiếc ô tô cũng là bất cập. “Ô tô là phương tiện đi lại. Chúng tôi đi công tác hàng chục ngàn km/năm, nếu đi thuê xe, tiền thuê phục vụ công việc còn nhiều hơn việc mua ô tô và nuôi người lái, đổ xăng xe”.

Tuy vậy, ông Dũng cũng nhận định, khó khăn mở ra cơ hội, chính vì những vướng mắc này mà Viện Năng lượng đã quyết tâm đề xuất phương án được tự chủ ở nhóm a, tức là đảm bảo chi thường xuyên và đầu tư. Như vậy, doanh nghiệp sẽ được chủ động nhiều hơn trong phần quyền hạn của mình.

Gỡ dần vướng mắc

Theo ông Đinh Việt Bách – Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Khoa học và Công nghệ thì quan điểm thực hiện cơ chế tự chủ tại Nghị định 54 là phân loại tổ chức KH&CN công lập theo chức năng của tổ chức để giao quyền tự chủ. Mức độ tự chủ được đánh giá dựa trên mức độ bảo đảm về chi thường xuyên và chi đầu tư của tổ chức KH&CN công lập. Đó là tổ chức KH&CN tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, cụ thể gồm 4 loại:

Loại a: tổ chức KH&CN công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư;

Loại b: tổ chức KH&CN công lập tự bảo đảm chi thường xuyên;

Loại c: tổ chức KH&CN công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên;

Loại d: tổ chức KH&CN công lập do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.

Tùy thuộc vào mức độ tự chủ a,b,c hay d, tổ chức KH&CN sẽ được hưởng các ưu đãi, hỗ trợ và được thực hiện các quyền ở mức khác nhau theo hướng, mức độ tự chủ càng cao thì mức độ tự chủ trong thực hiện các quyền càng cao.

Về vấn đề này, ông Đặng Văn Sơn – Viện trưởng Viện Công nghiệp giấy và xenlulose cho rằng, Bộ Công Thương cần định hướng các đơn vị của mình nên đi theo mô hình nào: Chuyển tất thành doanh nghiệp KH&CN hay là tổ chức KH&CN tự chủ. Việc định hướng của Bộ là rất quan trọng, góp phần cho các đơn vị ổn định tổ chức.

“Chúng tôi vẫn đứng đây. Chúng tôi có thể phát triển được. Điều đó chỉ ra rằng, chỉ cần có cơ chế chính sách phù hợp chúng tôi vẫn phát triển tốt”. – ông Sơn lạc quan.

Viện Nghiên cứu Cơ khí, một trong những mô hình rất thành công của ngành Công Thương cũng ủng hộ việc không nên ràng buộc về nhân sự của các doanh nghiệp tự chủ. Ông Phan Đăng Phong – Viện trưởng Viện Nghiên cứu cơ khí mong muốn, Nhà nước cho đơn vị quyền tự quyết về nhân sự, khi có việc tuyển thêm, khi không có tự giảm đi và phải cho doanh nghiệp tự ký hợp đồng tuyển lao động.

Nhiều ý kiến cũng cho rằng, do trói buộc mức lương (việc trích lập quỹ thu nhập tăng thêm không quá 3 lần quỹ tiền lương ngạch, bậc) nên các viện không thu hút được nhân tài về làm việc, không giữ chân được người lao động, thậm chí còn bị chảy máu chất xám rất đáng báo động. Ông Phong đưa ra kiến nghị, cần tách bạch nguồn thu từ NSNN hay từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu là từ NSNN vẫn vận dụng theo qui định trên, còn các nguồn thu từ hoạt động SXKD thì cho phép doanh nghiệp vận dụng cơ chế trả lương theo doanh nghiệp, nhằm giữ nguồn nhân lực chất lượng cao.

Một vướng mắc nữa chính là việc huy động vốn. Do các viện hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm nên về nguyên tắc không thể sử dụng tài sản như đất đai để thế chấp vay vốn nên hạn mức tín dụng của các viện thấp không đủ để thực hiện các hợp đồng kinh tế lớn. Do đó, hiện nay nhiều viện phải dùng hình thức tín chấp, anh làm ăn tốt thì ngân hàng cho vay, làm không tốt thì không cho vay, rất khó cho việc đầu tư sản xuất kinh doanh.

Đại diện Bộ Tài chính lên giải đáp các thắc mắc của viện về Nghị định 54

Tại Hội thảo, đại diện Bộ Tài chính đã phân tích lại một lần nữa những nét chính của Nghị định 54, đồng thời đưa ra lời khuyên với các đơn vị, cần cân nhắc kỹ trước khi quyết định mô hình tự chủ, trên nguyên tắc tự chủ càng cao thì quyền hạn càng cao.

Qua Hội thảo, các đơn vị đều mong muốn, Bộ Công Thương tiếp tục cùng tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị. Các ý kiến đóng góp tại Hội thảo tiếp tục được Vụ KH&CN, Bộ Công Thương ghi nhận để trình đến các cấp có thẩm quyền nhằm gỡ dần vướng mắc, hoàn thiện đề án chuyển đổi các đơn vị sang mô hình tổ chức KH&CN công lập tự chủ theo đúng tiến độ đề ra.

Hồ Nga

Nguồn Tạp chí Công thương: http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/to-chuc-khoa-hoc-cong-nghe-tu-chu-van-can-thao-go-kho-khan-62614.htm