Tranh chấp quản trị: Bãi nhiệm Giám đốc điều hành

Tranh chấp về việc Hội đồng quản trị (HĐQT) miễn nhiệm Tổng giám đốc (đóng vai trò là người đại diện theo pháp luật của Công ty).

Xét về mặt lý thuyết, đây là một hoạt động bình thường, thuộc thẩm quyền của HĐQT. Tuy vậy, thực tiễn xét xử và đăng kí doanh nghiệp, vấn đề có hơi khác hơn một chút.

Vụ việc thực tế

Ngày 18/10/2014, công ty May Sài Gòn 3 họp HĐQT gồm 7 thành viên biểu quyết nhiều vấn đề, trong đó có miễn nhiệm bà Thu (Tổng Giám Đốc), 3 thành viên không đồng ý (ông Hồng, bà Thu, bà Bé) và 4 thành viên đồng ý (ông Sáu, ông Hòa, bà Điệp, bà Tuyết). Tuy nhiên, nội dung biểu quyết này không có trong thông báo họp trước đó nhưng các thành viên đồng ý vẫn ban hành quyết định số 02/2014/QĐ-HĐQT 20/4/2014 thay đổi người đại diện pháp luật từ bà Thu sang ông Hoài, quyết định số 03/2014/QĐ-HĐQT miễn nhiệm chức vụ Tổng giám đốc của bà Thu, quyết định 04/2014/QĐ-HĐQT bổ nhiệm chức danh Tổng giám đốc cho ông Hòa; làm các thủ tục và nộp hồ sơ xin thay đổi người đại diện pháp luật đến Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh nhưng do chưa phù hợp nên không được chấp nhận đăng kí thay đổi. Do đó, 6/12/2014, HĐQT họp lần nữa để biểu quyết bãi nhiệm bà Thu và kết quả tương tự như cũ, bị đơn đã gửi đơn đến Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh xin thay đổi 1 lần nữa.

Nguyên đơn (bà Cúc – cổ đông sở hữu 1.55% cổ phần, liên tục ít nhất 1 năm) yêu cầu: hủy bỏ 4 quyết định 02, 03, 04 và quyết định cuối cùng của HĐQT và yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt hại là 1 tỷ đồng do hành vi chấp thuận trái pháp luật. Đến ngày 13/4/2015, nguyên đơn rút lại yêu cầu bồi thường.
Bị đơn (ông(bà) Sáu, Hòa, Điệp, Tuyết) trình bày: do khi lần đầu nộp đơn xin thay đổi người đại diện không được Sở kế hoạch và đầu tư đồng ý nên 3 quyết định (02, 03, 04) của HĐQT đã không còn được thực hiện.

Trong lần họp HĐQT lần 2, kết quả biểu quyết tương tự lần 1 và cả 7 thành viên đã kí vào biên bản họp, do vậy bị đơn không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc hủy bỏ 4 quyết định trên. Ngoài ra còn yêu cầu Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án vì nguyên đơn và người có quyền và lợi ích liên quan chưa đủ điều kiện khởi kiện. [Nguồn: bản án phúc thẩm số 48/2015/KDTM-PT ngày 16/12/2015 của Tòa án nhân dân cấp cao thành phố Hồ Chí Minh] Các vấn đề · Quyền yêu cầu thành viên HĐQT bồi thường và yêu cầu hủy nghị quyết của HĐQT · Quyền bãi miễn giám đốc của Hội đồng quản trị Bình luận Quyền yêu cầu thành viên HĐQT bồi thường và yêu cầu hủy nghị quyết của HĐQT Với tư cách là cơ quan quản lý, HĐQT trong công ty phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, điều lệ công ty. Sẽ có khả năng HĐQT vi phạm các nghĩa vụ của mình và gây thiệt hại cho công ty và/ hoặc cổ đông. Từ đó đặt ra vấn đề dừng các nghị quyết trái pháp luật và yêu cầu bồi thường các thiệt hại. Vấn đề là: Hai quyền này lại là hai quyền được qui định tách bạch dành cho các [nhóm] cổ đông khác nhau: Quyền yêu cầu hủy nghị quyết của HĐQT Theo qui định tại khoản 4 điều 149 LDN 2014 “Khi thực hiện chức năng, quyền và nghĩa vụ của mình, Hội đồng quản trị tuân thủ đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty và nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông. Trong trường hợp nghị quyết do Hội đồng quản trị thông qua trái với quy định của pháp luật hoặc Điều lệ công ty gây thiệt hại cho công ty thì các thành viên tán thành thông qua nghị quyết đó phải cùng liên đới chịu trách nhiệm cá nhân về nghị quyết đó và phải đền bù thiệt hại cho công ty; thành viên phản đối thông qua nghị quyết nói trên được miễn trừ trách nhiệm. Trường hợp này, cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục trong thời hạn ít nhất 01 nămcó quyền yêu cầu Hội đồng quản trị đình chỉ thực hiện nghị quyết nói trên”. Bà Cúc là cổ đông sở hữu 1.55% cổ phần trong CTCP may Sài Gòn 3, với thời gian liên tục trên 1 năm, đã đáp ứng yêu cầu của LDN về việc yêu cầu HĐQT hủy nghị quyết. Nhưng xét về mặt tố tụng, qui định tại điều 149 đã đủ là cơ sở để tiến khởi kiện hay chưa? Quyền yêu cầu các thành viên HĐQT bồi thường Xét về khía cạnh quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường đối với thành viên HĐQT khoản 1 điều 161 LDN 2014 qui định: Cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng có quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sựđối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Nhìn từ góc độ này, các cổ đông của CTCP May Sài Gòn 3 hoàn toàn có quyền khởi kiện. Tuy vậy, bản chất của tất cả các vụ kiện về trách nhiệm và yêu cầu bồi thường là nguyên đơn phải chứng minh được thiệt hại. Đối chiếu với tình huống này, các cổ đông của May Sai Gòn 3 hầu như rất khó có cơ sở để chứng minh thiệt hại vật chất của công ty hoặc cổ đông là bao nhiêu. Do đó, cho đến khi các nguyên đơn xuất trình được các bằng chứng về các thiệt hại của mình và/ hoặc công ty, việc yêu cầu bồi thường mới chỉ dừng lại ở góc độ lý thuyết mà chưa thể trở thành các chế tài đối với các thành viên của HĐQT đã thông qua quyết định thay đổi giám đốc. Hội đồng quản trị có quyền thay giám đốc hay không Khoản 2 điều 134 LDN 2014 qui định “trường hợp chỉ có một người đại diện theo pháp luật, thì Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty; trường hợp Điều lệ không có quy định khác thì Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của công ty”. Nói như thế không có nghĩa là nếu điều lệ không có qui định chủ tịch là người đại diện thì suy đoán giám đốc là người đại diện. Về mặt pháp lý cũng như thực tiễn về đăng kí doanh nghiệp không chấp nhận phương án suy đoán. Rắc rối cũng từ đây mà ra. Theo qui định của điều 25 LDN 2014, điều lệ công ty phải qui định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Vấn đề là điều lệ công ty ghi chức danh hay ghi tên người? Phương án được cơ quan đăng kí kinh doanh chấp nhận đó là cả hai. Có nghĩa là ở mục đại diện theo pháp luật phải xác định rõ ai là người đại diện theo pháp luật và người ấy giữ chức vụ gì (chủ tịch hay giám đốc). Trở lại với tình huống được nêu ra từ đầu. Hội đồng quản trị miễn nhiệm giám đốc để bổ nhiệm giám đốc mới. Vấn đề này thuộc thẩm quyền của HĐQT. Nhưng vì giám đốc là người đại diện theo pháp luật, được ghi nhận trong điều lệ, do vậy thay đổi giám đốc khác cũng đồng nghĩa là phải sửa đổi điều lệ của công ty. Nhưng khi muốn sửa đổi điều lệ, vấn đề không còn thuộc thẩm quyền của HĐQT nữa mà đã thuộc quyền của ĐHĐCĐ. Người đại diện của công ty: chức danh hay con người? Khi công ty trao quyền cho giám đốc, hệ quả là công ty phải chịu trách nhiệm về các hệ quả pháp lý do ông giám đốc kia thực hiện khi nhân danh công ty. Sau này, công ty đổi ông giám đốc khác, công ty cũng phải chịu trách nhiệm với các giao dịch do giám đốc cũ thực hiện. Công ty không thể lấy lí do vì công ty đã thay đổi giám đốc rồi không chịu trách nhiệm. Cũng vì lẽ đó, pháp luật doanh nghiệp qui định: “Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty được quy định tại Điều lệ công ty”. Cái mà pháp luật hướng đến chỉ là CHỨC DANH nào trong công ty sẽ là người đại diện cho công ty chứ không phải là hướng đến những con người cụ thể. Cho nên, áp dụng vào trong tình huống của May Sài Gòn 3, việc HĐQT bãi miễn và thay giám đốc mới là hoàn toàn phù hợp với thẩm quyền của HĐQT tại điều 149 LDN 2014. Khuyến nghị từ thực tế Cho đến nay, khuynh hướng của các cơ quan đăng kí doanh nghiệp và Tòa án, vẫn cho rằng người đại diện theo pháp luật của công ty vẫn là những con người cụ thể. Cũng vì thế mà việc HĐQT khi bãi miễn chức danh giám đốc của một người (khi giám đốc đồng thời cũng là người đại diện theo pháp luật của công ty) sẽ đứng trước nguy cơ bị hủy bởi tòa án tại Việt Nam. Mặc dù cách hiểu này là không phù hợp với qui định của tinh thần của LDN 2014, nhưng nó vẫn là một rủi ro mà doanh nghiệp phải đối mặt. Đây cũng là một vấn đề mà doanh nghiệp nên cân nhắc trong quá trình quản trị.

TS Phạm Hoài Huấn

Nguồn DĐDN: http://enternews.vn/tranh-chap-quan-tri-01-bai-nhiem-giam-doc-dieu-hanh-131223.html