Trực tâm, thâm tâm & Bồ-đề tâm

Bài viết dưới đây của Trưởng lão HT.Thích Trí Quảng, Phó Pháp chủ HĐCM, Tổng Biên tập Báo Giác Ngộ đăng trên nguyệt san số đặc biệt - kính mừng Phật đản PL.2563, nay Giác Ngộ online giới thiệu tới quý độc giả.

-------

Hàng năm, cứ mỗi độ sen nở tỏa hương thơm ngát, là báo hiệu mùa Phật đản đã về trong lòng người con Phật khắp năm châu. Đón mừng ngày Đản sanh của Đức Phật, gợi lên trong tâm hồn chúng ta hình ảnh thuần thiện của một bậc đại Giác ngộ mang ánh sáng tình thương, trí tuệ và giải thoát đến cho mọi người.

Đức Phật trở thành con người bất tử như vậy, vì lấy chúng sanh làm Tịnh độ của Ngài

Kỷ niệm ngày Đảnsanh của Đức Từ phụ, chúng ta hãy làm sáng tỏ những lời giáo huấn và dõi theonhững việc làm xả kỷ vị tha của Ngài cùng giáo đoàn và lấy đó làm kim chỉ namtrên bước đường tiến tu giải thoát, phục vụ đạo pháp, phục vụ dân tộc.

Nguồn sinh lựccủa Chánh pháp không phải chỉ tìm thấy trong tam tạng kinh điển mà chính là sựthể nghiệm chân lý trong đời sống của Đức Phật. Trong thời Đức Phật tại thế,các đệ tử chỉ cần nương vào đạo phong của Ngài mà tu tập, chứng ngộ dễ dàng.Nhân cách siêu tuyệt của Đức Phật đã cảm hóa nhân loại một cách nhiệm mầu. Chođến hơn 25 thế kỷ sau khi Ngài vào Niết-bàn, tư tưởng thánh thiện và việc làmvì an lạc cho nhân sinh của Ngài vẫn còn chỉ đạo cho sự sống cao đẹp, an vui,giải thoát của Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói riêng và toàn thể Tăng Ni, Phậttử trên khắp năm châu nói chung.

Đức Phật quả làmột nguồn sống đạo đức vô tận. Thế nhưng Ngài là một vị Thầy độc nhất trong nhữngnhà sáng lập các tôn giáo đã không tự xưng là gì khác hơn một con người. Đức Phậtphủ nhận tư cách đấng cứu thế của Ngài, hay một sự mặc khải từ bất cứ một vị thầnlinh nào khác. Đức Phật dùng một thí dụ để định rõ vị trí của Ngài trong thế giơíloài người ở đoạn kinh Anguttara Nikaya như sau:

Như hoa senđẹp đẽ và dễ mến,

Không nhiễm ô bùn nhơ nước đục,

Giữa đám bụi trần, Ta không vướng chút bợn nhơ,

Như vậy Talà Phật.

Trước khi thànhđạo, Ngài là một con người như bao nhiêu người khác. Qua một quá trình tu hành,chuyển đổi sinh hoạt tinh thần đến điểm cao nhất ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ngài mới đượctôn kính là Phật. Từ một người bình thường, Ngài đã vượt lên thành người phithường, hiếm có trên cuộc đời này, như hoa sen vươn lên khỏi bùn nhơ nước đục.Nhân cách của Ngài siêu việt như vậy, chúng ta không cần phải tô điểm, thầnthánh hóa Đức Phật. Tự Ngài đã thể hiện một hình ảnh sống thật toàn thiện, toànmỹ từ tinh thần cho đến lời nói, việc làm trong suốt 49 năm giáo hóa độ sanh.

Từ khi còn làThái tử, chúng ta đã thấy Ngài thể hiện tư cách của người mang chí lớn. Mọi cámdỗ chung quanh không tác động được Ngài. Ngài có tất cả những ưu đãi mà ngươìthế gian ham muốn, như sanh ra trong một gia đình vua chúa, thông minh nhất, đẹpnhất, nhiều quyền thế nhất, giàu sang nhất.

Trong cuộc sống, dẹp bỏ được mọi dục vọng vịkỷ là việc không đơn giản; nhưng Ngài đã từchối một cách dễ dàng. Thái tử Sĩ ĐạtTa đã nói rằng: “Ta xem tước vị vương hầu như bụi qua khe cửa; xemchâu báu, vàng bạc, ngọc ngà như ngói gạch; xem y phục, tơ lụa như vải thô xấu…”.Ngài không giống như người tầm thường, không đắm nhiễm những cái mà loàingười ham muốn. Trái lại, điểm đặc biệt của Ngài không phải chỉ thấy một mặt giảtạm của sự vật, mà thường nhìn thấy cả bề trái của sự vật. Những gì phàm phusay đắm, Ngài lại thấy đó chỉ là cái vỏ bọc bên ngoài có tính chất tạm bợ màthôi. Chẳng hạn nhìn một vũ nữ đẹp, Thái tử thấy được sự tàn tạ sau khi chấm dứtcuộc vui, hay chỉ là một túi da đựng đồ hôi thối. Hoặc Ngài thấy sự an bài trậttự xã hội của Bà-la-môn giáo áp đặt cho mọi người là một điều mâu thuẫn lớnlao…

Vì vậy, Đức Phậtdạy sự vật thế nào thì chúng ta phải nhìn thấy đúng như thật, đừng tô điểmthêm, đừng thấy khác. Kinh của Đức Phật luôn luôn đặt vấn đề thấy và hiểu lêntrên hết. Và sự chứng ngộ của đạo Phật có nghĩa là đã thấy chân lý, đã thể nhậpchân lý, đã thấy được sự vật đúng như sự thật của nó. Con đường tìm ra chân lýcủa Đức Phật vì thế gọi là con đường như thị tri kiến.

Sự hiện hữu củaĐức Phật ở cõi Ta-bà không ngoài mục đích cứu khổ chúng sanh và mang lại hạnhphúc, an vui cho mọi người. Trong kinh Tạp A-hàm, Ngài đã xác định rằng:“Con người phi thường đã xuất hiện ở thế gian vì lợi ích cho chúng sanh, vìlòng thương xót cho đời, vì hạnh phúc cho chư Thiên và loài người”. Hoặctrong kinh Pháp hoa có nói: “Đức Phật ra đời vì một mục đích duy nhấtlà hướng dẫn chúng sanh phát triển trí tuệ, để được thành Phật giống như Ngài,không khác”.

Đức Phật là mộtngười toàn thiện, vì song song với đạo đức thuần tịnh, Ngài đã phát triển trítuệ đến mức độ cao siêu. Qua bài kệ của Trung bộ kinh, chúng ta biết rằngkhông có vị thầy nào dạy cho Đức Phật đạt đến quả vị Toàn giác:

Ta không cóĐạo sư,

Bậc như Takhông có,

Giữa thế giơínhân thiên,

Không có ai bằng Ta.

Ngài cũng khôngtheo học thuyết nào để phát triển trí tuệ. Trái lại, với năng lực phi thường,tâm hồn trong sáng, định lực kiên cường, ý chí sắt đá, Ngài trải qua bao thángnăm hành trì, tu luyện. Trong đêm thành đạo, hào quang trí tuệ của Ngài đã xoátan bóng tối vô minh, tiêu diệt hoàn toàn lậu hoặc. Ngài đã trở thành một bậcGiác ngộ toàn diện.

Với tâm từ vôlượng, đức hạnh vị tha không cùng, Đức Phật đã hiến dâng cuộc đời cho việc phụcvụ chúng sanh. Trên bước đường hành đạo, Ngài đến với tất cả mọi người. Thực tếcho thấy bất cứ nơi nào hiện hữu hình bóng Ngài, nơi đó được an lạc. Chúng sanhnào được Ngài hóa độ, chắc chắn sống an vui, giải thoát.

Qua 49 năm hoằnghóa độ sanh, những lời dạy của Đức Phật là tiếng chuông giải thoát, truyềnthông vào tri thức con người, giúp cho mọi người tỉnh thức trước thực tại khổđau. Từ đó, họ nhận thấy được nguyên nhân của khổ, phương pháp diệt khổ để tựgiác ngộ và giải thoát. Trang nghiêm thân tâm bằng đức hạnh từ bi, trí tuệ vànhững việc làm thánh thiện, Ngài đã là biểu tượng quy ngưỡng của chúng ta qua lịchsử dài hơn 2.500 năm.

Đức Phật trở thành con người bất tử như vậy, vì lâýchúng sanh làm Tịnh độ của Ngài. Nghĩa là Ngài xem sự an lành của người xungquanh là sự an lành của chính mình, lấy sự giải thoát của chúng sanh làm giảithoát của mình. Thật vậy, Đức Phật dạy trưởng giả Bảo Tích phương pháp xây dựngTịnh độ trong kinh Duy Ma, phẩm Phật quốc như sau: “Này BảoTích, tất cả chúng sanh là cõi Phật của Bồ-tát. Bồ-tát nguyện lãnh lấy cõi Phật,chẳng phải ở nơi Không. Bảo Tích, ông nên biết trực tâm là Tịnh độ của Bồ-tát,thâm tâm là Tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-đề tâm là Tịnh độ của Bồ-tát; bố thí, trì giới,nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ là Tịnh độ của Bồ-tát; Tứ vô lượng tâm,Tứ nhiếp pháp, 37 phẩm trợ đạo là Tịnh độ của Bồ-tát. Tự mình giữ giới hạnh,không chê chỗ kém khuyết của người khác là Tịnh độ của Bồ-tát. Này Bảo Tích, Bồ-tátnếu muốn được cõi Phật thanh tịnh, nên làm cho tâm được thanh tịnh; theo chỗtâm được thanh tịnh mà cõi Phật được thanh tịnh…”.

Qua đoạn kinhtrên, khởi điểm Phật dạy Bảo Tích xây dựng thế giới an lành bằng trực tâm. Cótâm chánh trực, người Phật tử biết sống thành thật với chính mình và với ngươìchung quanh. Mỗi người chúng ta dám nhìn thẳng vào bộ mặt thật của mình, tự hỏirằng mình có thực sự diệt trừ hết mọi ganh ghét, đố kỵ, thù hận hay chưa. Bằngtâm chân thật, không dua dối, chúng ta phải quay về bản thân để quan sát, đểchiêm nghiệm. Nhận thấy rõ tâm thức chúng ta gồm đủ hạt giống thiện và ác, từđó cố gắng tinh tấn thực hành sự cải thiện nội giới. Cải thiện tốt đẹp càng nhiêùbao nhiêu, càng sáng suốt bấy nhiêu. Sáng suốt giúp ta bình tĩnh, không còn mờmắt trước những cám dỗ của ngoại giới. Nhờ đó, hành động luôn luôn được hướng dẫnbằng tâm ngay thật, sẽ tạo niềm tin tưởng của những người xung quanh. Và họ sẽđến với ta bằng chân tình. Nghĩa là thế giới tin yêu, an lành đã mở ra chochính mình và cho mọi người.

Trang nghiêm bằngtâm thành thật và cuộc sống chân thật rồi, Đức Phật dạy chúng ta thâm tâm là Tịnhđộ của Bồ-tát. Nghĩa là chúng ta luôn thao thức và quyết ý cứu tất cả chúngsanh. Thâm tâm này chính là bổn hoài của Đức Phật Thích Ca khi Ngài hiện hưũtrên cuộc đời này. Trong kinh Pháp hoa, phẩm Như Lai thọ lượng, Đức Phậtcũng nhắc lại rằng:

“… Ta thườngbiết chúng sanh

Hành đạo chẳnghành đạo

Tùy chỗ đángđộ được

Vì nói cácpháp môn

Hằng tự nghĩthế này

Lấy gì chochúng sanh

Được vào huệVô thượng

Mau thành tưụthân Phật”.

Như vậy, đối tượngchân chính của đạo Phật là con người, là xã hội và cứu cánh là làm cho mọi ngươìđược giác ngộ, giải thoát mọi khổ đau.

Trang bị bằngthâm tâm nhằm cứu khổ ban vui cho chúng sanh, chúngta phải biết thương yêu mọi người. Tình thương này được thể hiện bằng nhữnghành động cụ thể, như bảo vệ lẫn nhau, đùmbọc nhau, cứu trợ những người đói khổ, anủi những người bất hạnh, bênh vực những người cô đơn yếu thế và nhân từ với nhữngngười dưới...

Tinh thần thương yêu đồng loại của Đức Phậtđã hòa hợp, ăn sâu vào lòng dân tộc Việt Nam, thể hiện qua câu “Thương ngươìnhư thể thương thân”. Sống với lòng từ bi,với tình thương, chúng ta sẽ có được cảnh giới an vui, hòa hợp, đoàn kết.

Tình thương càng mở rộng, chí nguyện sẽ theo đó lớnthêm. Từ bi là động lực chính đưa đến mọi sự hy sinh cao cả, nhằm phục vụ cộngđồng xã hội, phục vụ nhân loại. Nơi nào có từ bi, nơi đó lửa hận thù bị dập tắtvà hoa tình thương sẽ nở trong lòng người. Đức Phật dạy trong kinh Pháp cúrằng: “Ta nên lấy từ bi thắng lướt hận thù; lấy lòng tốt đối lại với sự xâúxa; lấy bác ái đối lại ích kỷ và lấy sự chân thật đối lại gian tà”. Chúngta tích cực sử dụng năng lực từ bi soi sáng vào đời, để cải thiện con người,chuyển hóa cuộc đời, xây dựng xã hội tình người, tạo cuộc sống an vui và hoàbình trên thế gian.

Muốn thể hiệnthâm tâm có hiệu quả, cần trang bị thêm Bồ-đề tâm. Bồ-đề tâm là trí giác, là khảnăng nhận thức sáng suốt, hành động sáng suốt, lợi cho mình cho người. Đạo Phậtđược xem là đạo của trí tuệ. Có trí tuệ, mơínhận thức và hành động đúng đắn.

Cái thấy bằng Pháp nhãn của người đã chứngngộ chân lý được diễn tả như sau: “Người nào đã thấy chân lý, đã biết chânlý, đã nhập vào chân lý, đã vượt qua hoài nghi, người ấy không còn do dự. Vơítrí tuệ chân chính, người ấy thấy sự vật đúng như thật”. Điểm này là phản ứngtư tưởng tích cực nhất đối với giáo lý Bà-la-môn thời ấy. Họ bắt buộc mọi ngươìphải tin tưởng và cúi đầu chấp nhận truyền thống về quyền thống trị của họ nhưmột chân lý độc nhất.

Với trí tuệ soisáng, chúng ta sẽ phá tan được thành trì tà kiến cực đoan, có được cái nhìn baodung, phổ cập. Nhờ vậy, không cục bộ, không bè phái và gạt bỏ được những vướngmắc còn sót lại, để hòa hợp và đoàn kết, cùng phục vụ đoàn thể, xã hội, cộng đồngnhân loại.

Xa hơn nữa, ĐứcPhật dạy, với sự rọi sáng của trí tuệ, chúng ta nhận thức được không có gì khácbiệt giữa con người với con người và với vạn vật; huống chi là có giai cấp, cómàu sắc địa phương. Vì muôn pháp trong vũ trụ cùng một thể tánh như nhau. Sự đồngnhất này là nguyên lý tất yếu đưa đến sự hòa hợp, an lạc và đoàn kết của mọingười trong xã hội.

“Không cógiai cấp trong dòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn”. Lời dạy này của Đức Phậtchẳng những khẳng định nguyên tắc bình đẳng tuyệtđối làm nền tảng cho sự nỗ lực vươn lên của con người, mà còn mang tínhchất nhân bản, cao thượng. Nó xác định quyềnlàm chủ vận mệnh và tự quyết định tương lai của mỗi người bằng tinh thầntự lực, khả năng sẵn có của chính họ.

Trong lịch sửnhân loại, A Dục vương, một vị vua cai trị lỗi lạc của nước Ấn Độ. Với đức tinkiên cố và kiến giải đúng Chánh pháp, ông đã áp dụng lời dạy của Đức Phật vềhòa bình và yêu thương trong việc cai trị. Lúc đầu, ông theo gương vua cha vaồng nội, xâm chiếm nước Kalinga. Hàng ngàn người bị giết, bị thương, bị tra tấntrong trận chiến này. Nhưng về sau, khi trở thành Phật tử, ông hoàn toàn thay đôỉviệc làm. Không những từ bỏ chiến tranh, ông còn nhắn nhủ con cháu rằng: “Conta và cháu ta sẽ đừng nghĩ về một cuộc chinh phục nào khác nữa xem như đánglàm. Chúng hãy chỉ nghĩ đến một sự chinh phục độc nhất, sự chinh phục bằng đạođức. Điều này lợi ích cho đời này và cả đời sau”.

Đây là tấmgương sáng của vị hoàng đế đã thể nghiệm ba tâm căn bản nêu trên và ông đã kiếntạo cõi Tịnh độ ngay trên nhân gian này. Thật vậy, ông đã quay lưng lại với chiếntranh bạo lực, để đón nhận thông điệp tình thương, trí tuệ và hòa bình. Toànlãnh thổ đều được hòa bình dưới sự lãnh đạo nhân từ của ông.

Ngoài trực tâm,thâm tâm và Bồ-đề tâm tạo thành Tịnh độ của Bồ-tát, Tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xảcũng là yếu tố tạo nên cảnh giới an lạc. Vì vậy, đạo Phật còn được gọi là đạo từbi, hỷ xả, vô ngã vị tha.

Tâm hồn Phật lộnggió muôn phương, bao dung tất cả mọi người. Theo Phật, lòng từ trải ra tình yêuvô hạn với mọi loài chúng sanh, thường được ví như tình mẹ thương con như biểnhồ lai láng. Lòng bi thường khởi tâm đau xót, trắc ẩn đối với chúng sanh tràn đâỳkhổ đau. Tâm hỷ mang niềm vui cho người, hoặc có thiện cảm trước sự thành côngvà hạnh phúc của người. Tâm xả là đối diện với sự thăng trầm của cuộc sống bằngtâm hồn thanh thoát, an tĩnh.

Kỷ niệm ngày Đản sanh của Đức Thế Tôn, chúng ta tiếp nhận Tứ vôlượng tâm của Phật dạy và hành đạo dưới sự hướng dẫn của trực tâm, thâm tâm, Bồ-đềtâm. Được như vậy, chúng ta kiến tạo ngay trên nhân gian này một xã hội nơi đóngu si, tham lam, ghét ganh không làm ô nhiễm tâm trí con người. Nơi đó mọi ngươìsống hạnh phúc, an bình và cùng hướng về mục đích cao cả nhất là sự chứng đắcquả vị Vô thượng Chánh đẳng chánh giác.

HT.Thích Trí Quảng

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn//nguyetsan/triethoc/2019/07/16/5b76ca/