Tự do tư tưởng: Từ khát vọng đến thực tiễn sinh động ở Việt Nam

Tự do tư tưởng là quyền cơ bản của con người đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc khẳng định trong Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế năm 1948. Hiến pháp 2013 của Việt Nam cũng khẳng định điều này. Tuy nhiên, trên mạng xã hội thời gian gần đây xuất hiện một số hội, nhóm tự xưng như 'Ban vận động Văn đoàn Việt Nam độc lập' hay 'Hội nhà báo Việt Nam độc lập' cho rằng Việt Nam 'bóp nghẹt tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do ý kiến...'. Vậy, cần nhìn nhận vấn đề này như thế nào?

BẢN CHẤT CỦA QUYỀN TỰ DO SÁNG TÁC

Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khóa VI về văn hóa, văn nghệ đã khẳng định: “Tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hóa, văn nghệ, để phát triển tài năng. Trong lịch sử, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tộc giành được độc lập, tự do và đã mang lại quyền tự do sáng tác chân chính cho văn nghệ sĩ. Bản chất quyền tự do sáng tác của văn nghệ sĩ nằm trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo và được quy định bởi trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với Tổ quốc và CNXH. Tác phẩm văn nghệ không vi phạm pháp luật, không phản động (chống lại dân tộc, chống lại CNXH, phá hoại hòa bình) và không đồi trụy (truyền bá tội ác, sự sa đọa, phá hoại nhân phẩm) đều có quyền được lưu hành và đặt dưới sự đánh giá, phán xét của công luận và sự phê bình”.

Là một chính đảng ra đời từ khát khao độc lập, tự do của nhân dân, hơn ai hết, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng quyền tự do sáng tạo tác phẩm báo chí, văn học nghệ thuật. Sức hút của ánh sáng từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thu hút phần lớn văn nghệ sĩ và trí thức tham gia cách mạng, vượt mọi khó khăn, gian khổ, đồng hành cùng nhân dân trong các cuộc kháng chiến trường kỳ. Đó cũng là nền tảng để báo chí, văn học, nghệ thuật Việt Nam trong 30 năm kháng chiến đạt được những thành tựu to lớn, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.

Từ thời chiến bước sang thời bình, từ thời bao cấp đến những năm đổi mới, trong từng bước chuyển mình của đất nước, đời sống báo chí, văn học, nghệ thuật của đất nước cũng diễn ra sự vận động không ngừng cả ở chiều sâu lẫn diện rộng. Đó là quãng đường đầy trăn trở với những tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức nhằm đáp ứng yêu cầu của công chúng, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước những đòi hỏi từ thực tiễn, Đảng cũng vươn lên ngang tầm nhiệm vụ, đổi mới tư duy mạnh mẽ trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo phát triển báo chí, văn học, nghệ thuật.

Thành tựu của 30 năm đổi mới, trong đó có thành tựu to lớn của báo chí, văn học, nghệ thuật đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng.

Tuy nhiên, trên một số website không chính thức thời gian qua, đã có nhà văn viết bài phủ định sạch trơn thành tựu của báo chí, văn học, nghệ thuật cách mạng, cho rằng đó lànhững tác phẩm tuyên truyền một chiều, “tô hồng thực tế” theo chỉ đạo của Đảng. Một số văn nghệ sĩ vì bất mãn mà phát tán trên mạng xã hội những luận điểm, cho rằng “cơ chế độc đảng” ở Việt Nam hiện nay đang bóp nghẹt tự do sáng tạo tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật (!?). Đáng tiếc là những nhà văn đó đã nói ngược với chính mình, phủ nhận chính những tác phẩm của mình từng được các nhà phê bình và bạn đọc đánh giá cao. Thiết nghĩ, đối với những người mà vì động cơ cá nhân, sẵn sàng phủ nhận chính mình thì có lẽ cũng không cần bàn luận gì thêm, bởi đối với họ, những phát ngôn được gắn mác “dân chủ” hay “đấu tranh” cũng không ngoài lợi ích cá nhân, vì sự bất mãn cá nhân.

Còn một số khác, lại dùng ngòi bút của mình đưa ra những khuyến nghị rất nghiêm túc, cho rằng trước đây, báo chí, văn học, nghệ thuật phục vụ Đảng để đấu tranh giành tự do; nay là lúc Đảng để cho báo chí, văn học, nghệ thuật được phát triển tự do.

Xét ở một góc độ nào đó, thì khuyến nghị trên cần được xem xét và đưa ra những luận giải một cách nghiêm túc, sao cho “thấu lý đạt tình”, tránh quy chụp và áp đặt! Bởi lẽ đó là suy nghĩ, nhận thức của một số văn nghệ sĩ hiện nay.

Luận giải để phản biện với khuyến nghị này, chúng tôi cũng nghiêm túc cho rằng, việc đảng chính trị lãnh đạo nhà nước và xã hội là vấn đề khách quan.Bất kể quốc gia nào cũng có vai trò lãnh đạo của đảng chính trị.Đảng nào giành được quyền lực, trở thành đảng cầm quyền đều có đường lối, mục tiêu của họ với mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội.Bởi vậy, báo chí, văn học, nghệ thuật đương nhiên không thể tách rời sự lãnh đạo đó. Trong khi các đảng cầm quyền khác trên thế giới thường né tránh nói về ảnh hưởng của họ đối với báo chí, văn học, nghệ thuật thì Đảng Cộng sản Việt Nam lại công khai và nhận trách nhiệm lãnh đạo về mình, coi đó là điều kiện quyết định bảo đảm quyền tự do sáng tạo tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật ở Việt Nam. Và điều đó, đã được Hiến pháp 2013 hiến định.

Cũng cần phải nói thêm rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đánh giá đúng vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của báo chí, văn học, nghệ thuật, hay nói cách khác, mục tiêu hoạt động của Đảng là nhằm bảo đảm cho nhân dân được hưởng đầy đủ quyền tự do báo chí, tự do lập hội, tự do hưởng thụ, sáng tác, quảng bá những tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật chân chính. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, từ bản Yêu sách của nhân dân An Nam năm 1919 gửi nhà cầm quyền Pháp đã nêu yêu cầu về tự do báo chí, tự do lập hội. Năm 1943, dù chưa giành được chính quyền, Đảng vẫn xây dựng Đề cương Văn hóa Việt Nam, chủ trương phát triển nền văn hóa Việt Nam theo hướng Dân tộc, Khoa học và Đại chúng…

Sơ lược như vậy để thấy rằng, vấn đề đảng chính trị lãnh đạo báo chí, văn học, nghệ thuật, dù bằng những phương thức khác nhau, là vấn đề kháchquan. Hơn nữa, sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học, nghệ thuật không có mục tiêu nào khác nhằm phát triển lĩnh vực này theo những giá trị của truyền thống dân tộc và giá trị nhân loại, theo các chuẩn mực Chân - Thiện - Mỹ.

TỰ DO NÀO CŨNG PHẢI VÌ CÔNG LÝ VÀ CỘNG ĐỒNG

Vẫn có những quan điểm lạc lõng cho rằng: “Dưới chế độ đảng trị thì dẫu có cả nghìn tờ báo, kênh phát thanh-truyền hình, báo chí Việt Nam vẫn chỉ là báo chí một chiều, thông tin theo định hướng”; rồi “văn họcnghệ thuật do Đảng lãnh đạo là thứ văn học-nghệ thuật minh họa nghị quyết”…

Cứ theo quan điểm của những người phủ nhận vai trò của Đảng thì để có nền báo chí, văn học nghệ thuật “thực sự”, các nhà báo, văn nghệ sĩ phải có quyền thông tin vô hạn độ, “thông tin trong thế giới phẳng không có biên giới, không có vùng cấm”, hay các văn nghệ sĩ được quyền tự do tuyệt đối trong sáng tạo và công bố tác phẩm.

Vậy hiện nay, trên thế giới đã có quốc gia nào có nền báo chí, văn học-nghệ thuật đạt đến trình độ “tự do tuyệt đối” như vậy chưa?

Ở Vương quốc Anh, mọi người có thể công khai diễn thuyết trong trường hợp nhất định và có không gian xác định nhưng nếu có người hô “đả đảo Chính phủ nước Anh”, “đả đảo Nữ hoàng” hoặc tuyên truyền bạo lực, thì sẽ bị coi là tội phạm và bị bắt. Ở Pháp, năm 1881, nền Cộng hòa lần thứ Ba của nước Pháp đã ban hành một đạo luật về tự do báo chí. Đạo luật này đến nay vẫn cơ bản còn giá trị. Cùng với việc công nhận quyền tự do báo chí, đạo luật 1881 đã xác lập giới hạn trong tự do báo chí, bằng việc đưa ra các định nghĩa về tội phạm báo chí.

Ở Mỹ, nơi được các nhà “dân chủ” xem như một hình mẫu của “thế giới tự do” khi họ viện dẫn Hiến pháp Liên bang Hoa Kỳ quy định Quốc hội không có quyền ban hành văn bản hạn chế tự do báo chí. Tuy nhiên, họ quên rằng, rất nhiều đạo luật, bộ luật đã cụ thể hóa vấn đề này. Đạo Luật Trấn áp Phản loạn của nước Mỹ quy định: “việc viết, in, phát biểu hay phổ biến… mọi văn bản sai sự thực, có tính chất xúc phạm hay ác ý chống chính quyền đều là tội”. Hay Điều 238, Bộ Luật Hình sự của Mỹ nghiêm cấm mọi hành vi “in ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết, tham vọng hoặc tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hoặc bạo lực”.

Như vậy, ở nhiều quốc gia khác nhau, cùng với việc công nhận quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng trong Hiến pháp, các bộ luật đều có những quy định cụ thể, đưa ra những giới hạn nhất định để bảo đảm việc thực thi các quyền con người phù hợp với sự ổn định và phát triển đất nước. Cách đây không lâu, một hãng phim Mỹ tung ra thị trường bộ phim “Sự ngây thơ của các tín đồ Hồi giáo” đã khiến toàn thể tín đồ đạo Hồi trên thế giới phẫn nộ, gây nên nhiều cuộc biểu tình, bạo động, bao vây, đe dọa an ninh các sứ quán Mỹ ở nhiều nước. Còn ở Pháp, ngày 7-1-2015 được xem là ngày đen tối nhất trong lịch sử báo chí nước Pháp, khi một nhóm khủng bố tấn công trụ sở tòa soạn Báo Charlie Hebdo, sát hại 12 người vì lý do tờ báo này đã vẽ tranh châm biếm tôn giáo của họ. Trước sự kiện thảm sát này, Giáo hoàng Francis đã cho rằng: “Tự do báo chí không phải vô giới hạn khi tự do đó xúc phạm tới tín ngưỡng tôn giáo”. Ông Ban Ki Mun, khi đương chức Tổng thư ký Liên hợp quốc cũng lên tiếng: “Tự do ngôn luận được bảo vệ khi nó được sử dụng vào mục đích công lý và cộng đồng… Khi một số người sử dụng quyền tự do này để khiêu khích hoặc sỉ nhục các giá trị niềm tin của người khác thì hành động đó sẽ không được bảo vệ”.

Điều 29, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc (năm 1948) khẳng định: “Mỗi người đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”.

SỨ MỆNH PHẤN ĐẤU CHO CHÂN - THIỆN - MỸ

Những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên đã chứng tỏ rằng, ở mọi quốc gia trên thế giới, không hề và không thể có nền báo chí, văn học - nghệ thuật nào “tự do tuyệt đối”, ‘tự do vô hạn”.

Nhà phê bình văn học Ngô Vĩnh Bình, khi bình luận về những yêu sách “tự do tuyệt đối” của một số nhà “dân chủ tự phong” đã cho rằng: Ở nước ta hiện nay, không còn “vùng cấm” trong văn nghệ không có nghĩa là văn nghệ sĩ được tự do tuyệt đối bởi như mọi lĩnh vực khác trong xã hội, văn học - nghệ thuật cần và phải có sự quản lý. Như mọi người, văn nghệ sĩ cũng là một công dân phải tuân thủ pháp luật, và như mọi ngành nghề hoạt động văn chương, nghệ thuật, báo chí cũng phải theo luật, cụ thể là Luật Xuất bản, Luật Báo chí. Là thế nên nói không có, không còn “vùng cấm” không có nghĩa là văn nghệ sĩ được sống và sáng tạo “ngoài vòng pháp luật”. Là văn nghệ sĩ Việt Nam, tất cả đều được tự do sáng tác nhưng khi công bố tác phẩm, xuất bản tác phẩm đều phải tuân thủ Luật Xuất bản, Luật Báo chí.

Không chỉ coi trọng quyền tự do sáng tạo của giới báo chí, văn nghệ sĩ, trong các nghị quyết của Đảng luôn chú ý đến tính đặc thù, đặc biệt tinh tế của giới báo chí, văn nghệ sĩ. Ngay thời kỳ đầu đổi mới, Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khóa VI đã nhấn mạnh: “Đảng khuyến khích văn nghệ sĩ tìm tòi sáng tạo, khuyến khích và yêu cầu có những thể nghiệm mạnh bạo và rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật, trong việc phát triển các loại hình và thể loại nghệ thuật, các hình thức biểu hiện”. Đảng cũng luôn tự phê bình và phê bình công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, văn học - nghệ thuật. Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị khóa X nhìn nhận: “năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của một số cấp ủy đảng, cơ quan nhà nước còn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế; nội dung và phương thức lãnh đạo chậm đổi mới; chưa lường hết được tác động phức tạp, tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, dẫn tới sự lúng túng, thụ động khi định hướng và xử lý những vấn đề mới phát sinh. Nhiều chính sách đối với văn nghệ và văn nghệ sĩ đã lạc hậu nhưng chậm được sửa đổi. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, tham mưu, quản lý văn nghệ thiếu hiểu biết về văn học-nghệ thuật, ít học tập, ngại tiếp xúc nên hiệu quả lãnh đạo, quản lý còn thấp...”.

Nêu lên nội dung này, chúng tôi muốn nhìn nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học-nghệ thuật luôn ở hai mặt của một vấn đề. Ở đâu, lãnh đạo sát, đúng thì ở đó báo chí, văn học, nghệ thuật phát triển mạnh.Ở đâu năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy còn hạn chế thì báo chí, văn học, nghệ thuật bị kìm hãm hoặc kém phát triển.Cách nhìn nhận như vậy càng cho chúng ta thấy rõ vai trò lãnh đạo của Đảng với báo chí, văn học, nghệ thuật.

Thành tựu phát triển của báo chí, văn học, nghệ thuật từ khi đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là không thể phủ nhận. Chỉ trong 30 năm đổi mới, Đảng ta đã ban hành 29 nghị quyết, kết luận, chỉ thị về văn hóa, báo chí - xuất bản, văn học - nghệ thuật. Cũng với quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò to lớn của báo chí, văn học, nghệ thuật, đó là những thành tố nòng cốt của nền văn hóa, là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, nguồn nội sinh quan trọng để phát triển đất nước.

Đời sống văn hóa, văn nghệ đã có những biến đổi sâu sắc sau 30 năm đổi mới với sự tiến bộ, phong phú, đa dạng cả về hình thức và nội dung, số lượng và chất lượng; đã đạt được những thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh vực: sáng tác, lý luận và phê bình, sử dụng và truyền bá, quản lý và lãnh đạo, đào tạo và bồi dưỡng. Văn hóa - nghệ thuật đã tích cực khám phá, nhận thức, phản ánh, tác động, cải biến hiện thực; đã thực sự trở thành động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam; đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu văn hóa, tinh thần ngày càng cao của nhân dân./.

Nguyễn Hồng Hải

Nguồn Tuyên Giáo: http://www.tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/tu-do-tu-tuong-tu-khat-vong-den-thuc-tien-sinh-dong-o-viet-nam-115206