Tự hào là con cháu Vua Hùng

(Báo Quảng Ngãi)- Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là tín ngưỡng đặc biệt trong tâm thức cộng đồng người Việt, bắt nguồn từ cội rễ văn hóa dân tộc, đồng hành cùng tiến trình lịch sử dân tộc và ngày càng có giá trị to lớn trong đời sống cộng đồng.

Người dân trong cả nước hành hương về Đất Tổ. Ảnh: PHƯƠNG THANH

Căn cứ vào nguồn tư liệu khảo cổ học và các tư liệu viết, có thể khẳng định ở thế kỷ XV trên núi Hùng đã có 1 ngôi chùa Thiên Quang và ngôi Đền Thượng (Điện Kính Thiên) và như vậy ít nhất vào thế kỷ XV đã xuất hiện công trình kiến trúc - tín ngưỡng thờ Hùng Vương trên núi Hùng. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có thể có ngay từ thời đại Hùng Vương cùng song hành với tín ngưỡng thờ tự nhiên, tín ngưỡng thờ thần, thờ tổ tiên... Một số nhà khoa học cho rằng: “Việc tôn thờ những nhân thần là một hình thức tín ngưỡng đặc sắc ở thời Hùng Vương. Ý thức về giống nòi và tập thể cộng đồng đã dẫn tới việc sùng bái trước hết là tổ tiên và những người đi đầu cộng đồng của mình, từ hẹp đến rộng. Vị thần - người lớn nhất bấy giờ - Hiển nhiên là thủ lĩnh tối cao của các miền đất đai và tộc người lúc ấy: Vua Hùng. Sự sùng kính những nhân vật cụ thể này đã đi tới chỗ đồng nhất họ với hệ thống các vị thần trừu tượng tồn tại sẵn trong quan niệm tín ngưỡng từ trước đấy của người thời Hùng Vương: Chim cá rồi Âu Cơ và Lạc Long Quân”. Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có thể đã có từ người Việt cổ, từ buổi khai sinh lập nước và bền bỉ tồn tại và phát triển cùng tiến trình lịch sử Việt Nam, song hành và tạo nên một giá trị văn hóa đặc biệt trong đời sống tinh thần người Việt.

Ảnh: VŨ THANH

Trước đây, xuân, thu nhị kỳ, các địa phương quanh núi Hùng thường tổ chức nghi thức cúng lễ và tiệc cầu vào mùa xuân. Thời Lê (thế kỷ XV- XVII), lễ Giỗ Tổ Hùng Vương diễn ra trong 3 ngày. Diễn trường của lễ hội bao gồm từ đình làng Cổ Tích lên đến núi Hùng. Truyền thuyết kể rằng, ngày Giỗ Tổ là ngày kỵ của Vua Hùng thứ 6 - Hùng Huy Vương. Ngôi mộ được táng trên đỉnh núi Hùng. Cổ lệ, ngày giỗ là ngày 11 tháng 3 âm lịch hằng năm. “Từ ngày 9 tháng 3 âm lịch, dân làng mở cửa đình, rước kiệu từ đình Cả lên đền Thượng làm lễ mở cửa đền, xong rước sắc từ đền Thượng về các đền cáo tế. Ngày 10 tháng 3 âm lịch làm lễ chính ở đình Cả dưới hình thức tế thần bằng cỗ tế tam sinh (dê đực, lợn đực, bò đực). Ngày 11/3 âm lịch lễ tạ ở đình Cả xong rước sắc lên đền Thượng làm lễ đóng cửa đền”.

Người dân xã Đào Xá (huyện Thanh Thủy) rước lễ vật ra đình làng. Ảnh: VŨ THANH

Thế kỷ thứ XVII - XVIII, do sự phát triển của dân địa phương các làng mới lập là làng Vi, làng Trẹo vốn gốc từ dân làng Cổ Tích, theo truyền thống văn hóa tín ngưỡng cùng làm lễ mở cửa đền vào ngày 10/3 âm lịch hằng năm. Lễ hội đã mở rộng trong cả một vùng rộng lớn với nhiều làng xã tham gia. Lễ hội Đền Hùng lúc đầu chỉ ở một làng, vài làng rồi sau lan ra một vùng và lan rộng trong toàn quốc trở thành nghi lễ mang tính quốc gia.

Tín ngưỡng thờ Hùng Vương được nhân dân cả nước và các triều đại phong kiến Việt Nam từ thời Lê - Nguyễn rất chú trọng. Trong cuốn “Ngọc phả Đền Hùng” cho thấy nhà nước thời Lê đã có cơ chế, chính sách cho hoạt động tín ngưỡng thờ Hùng Vương: “Chuẩn cho miếu, điện và các làng đăng cai (thôn Trung Nghĩa; xã Nghĩa Cương này) tô thuế, binh dân và sưu sai, tạp dịch vẫn theo lệ cũ phụng thờ các vua Hùng để dài quốc mạch, lưu thơm muôn đời”. Ngày 28/2/1785 (niên hiệu Cảnh Hưng), Nguyên soái tổng quốc chính Đoan Nam Vương (Trịnh Khải) ban lệnh cho phép xã Hy Cương được miễn trừ thuế khóa để chuyên lo việc đèn nhang cúng lễ tại Đền Hùng. Ngày 6/2/1789 (niên hiệu Quang Trung thứ 2), triều đình đã ký Đạo sắc phong cho dân Hy Cương làm “Trưởng tạo lệ” miễn trừ thuế khóa để chăm lo đèn nhang thờ phụng các Vua Hùng.

Ảnh: PHƯƠNG THANH

Các xã vùng ven khu di tích rước kiệu về Đền Hùng dịp Giỗ Tổ Hùng Vương năm Giáp Thìn 2024. Ảnh: PHƯƠNG THANH

Thời Nguyễn tiếp tục tôn vinh các Vua Hùng với chủ trương quốc thống, giao các địa phương kê khai thần tích, chỉ giữ lại thần tốt và phúc thần, loại bỏ các tà thần. Hùng Vương được vào hàng Thượng Đẳng thần, rước linh vị Đền Hùng vào thờ tại miếu “Lịch đại đế vương” - Kinh thành Huế. Đồng thời, triều đình cấp tiền tu sửa, tôn tạo các đền: Đền Thượng, Đền Trung, Đền Hạ, Đền Giếng... Các vua nhà Nguyễn theo lệ cứ 5 năm (vào các năm tròn, năm chẵn), nhà nước đứng ra tổ chức lễ giỗ tổ (quốc lễ) tại Đền Hùng, còn các năm lẻ do địa phương tổ chức. Vào năm 1917 (năm Khải Định thứ 2), quan tuần phủ Lê Trung Ngọc xin Bộ Lễ “ấn định ngày quốc lễ vào 10/3 âm lịch (tức trước ngày húy của Vua Hùng một ngày), ngày 11 để dân sở tại làm lễ”. Bộ Lễ đã thẩm xét và quy định cụ thể các phẩm phục, lễ phẩm, lễ nghi trong những ngày giỗ tổ một cách chặt chẽ. Phần lễ được diễn ra trang nghiêm trong các ngôi đền trên núi Hùng, phần hội gồm nhiều trò diễn dân gian diễn ra xung quang chân núi Hùng.

Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của ông cha, ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký “Sắc lệnh của Chủ tịch nước số 22/SL ngày 18 tháng 2 năm 1946”, cho “Những viên chức công nhật tòng sự tại các công sở có quyền được hưởng lương” trong 1 ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương năm Bính Tuất (1946) - năm đầu tiên của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, cụ Huỳnh Thúc Kháng - Quyền Chủ tịch nước đã dâng một tấm bản đồ Tổ quốc Việt Nam và một thanh gươm quý nhằm báo cáo với Tổ tiên về đất nước bị xâm lăng và cầu mong Tổ tiên phù hộ cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình cùng nhau đoàn kết, đánh tan giặc xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hai lần về thăm Đền Hùng (19/9/1954 và 19/8/1962). Tại đây, Người đã có câu nói bất hủ: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Người cũng nhắc nhở: “Phải chú ý bảo vệ, trồng thêm hoa, thêm cây cối để Đền Hùng ngày càng trang nghiêm và đẹp đẽ, thành công viên lịch sử cho con cháu sau này đến tham quan”.

Nghi lễ trong Lễ giỗ Đức Quốc tổ Lạc Long Quân, tại Đền Hùng (Phú Thọ). Ảnh: PHƯƠNG THANH

Ngày nay, Giỗ Tổ Hùng Vương được Nhà nước chính thể hóa với các quy định về tế lễ, dâng hương, các cơ quan nhà nước chủ trì. Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương được quy định là Quốc lễ. Người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. Lễ giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức trang nghiêm, trọng thể theo truyền thống văn hóa dân tộc. Tại các di tích thờ Hùng Vương và danh nhân, danh tướng thời Hùng Vương trên cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài đều tổ chức lễ dâng hương tri ân công đức các Vua Hùng, hướng về cội nguồn dân tộc. Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và Lễ hội Đền Hùng đã trở thành ngày hội văn hóa tâm linh lớn nhất toàn quốc, trở thành nếp nghĩ, thành di sản văn hóa đặc biệt trong đời sống cộng đồng người Việt. Với những giá trị đặc trưng và độc đáo, ngày 6/12/2012, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Các hoạt động của người dân tại lễ hội Đền Hùng. Ảnh: PT

Với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, cứ mỗi độ xuân về, đồng bào cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài lại hướng về nơi cội nguồn dân tộc, hành hương về đất Tổ với niềm tự hào và tấm lòng thành kính tri ân công đức tổ tiên.

NGUYỄN ĐẮC THỦY

Trình bày: VÕ VĂN

Nguồn Quảng Ngãi: http://baoquangngai.vn/media/emagazine/202404/emagazine-tu-hao-la-con-chau-vua-hung-62709ad/