Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Ngọn cờ hiệu triệu sức mạnh yêu nước của toàn thể dân tộc Việt Nam

77 năm qua, học tập và làm theo lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc Lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước đạt được nhiều thành tựu to lớn, thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc của toàn dân.

Tuyên ngôn độc lập, văn kiện có giá trị vô giá đối với dân tộc Việt Nam (Ảnh: Tư liệu)

Tuyên ngôn độc lập, văn kiện có giá trị vô giá đối với dân tộc Việt Nam (Ảnh: Tư liệu)

Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Bằng chính cương lĩnh, đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn của mình, dù trong điều kiện hoạt động bí mật, nửa bí mật, nửa công khai Đảng vẫn tuyên truyền, vận động và lôi cuốn được đông đảo quần chúng và tổ chức thành lực lượng hùng hậu cho cách mạng.

Trải qua muôn vàn thử thách trong máu lửa đấu tranh, với các cao trào cách mạng như Xô Viết Nghệ - Tĩnh năm 1930 - 1931, Cao trào mặt trận dân chủ 1936 - 1939 và đầu những năm 40 của thế kỷ XX với cao trào chống phát xít, Đảng và Nhân dân ta đã có nhiều bài học kinh nghiệm quý giá chuẩn bị cho một cuộc cách mạng giải phóng, giành lại độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc.

Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 08/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật.

Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, tạo điều kiện cho nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa châu Á đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc.

Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Tình hình quốc tế, trong nước có nhiều thuận lợi đòi hỏi Đảng ta phải có những quyết sách sáng suốt nhằm đẩy mạnh công tác chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 9/3/1945, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp.

Tháng 3/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

Tháng 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân.

Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng Dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ Lâm thời Cách mạng Việt Nam.

Từ tháng 4/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân.

Ngày 4/6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước.

Tháng 8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất, kịp thời.

23h ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa.

Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền.

Từ ngày 14 đến ngày 18/8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam...

Ngày 19/8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu...

Ngày 25/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre...

Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay Nhân dân.

Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịch sử, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2/9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.

Sau 36 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện những di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đất nước ta ngày càng đạt được những thành tựu to lớn, trở thành một nước đang phát triển, đời sống vật chất tinh thần của Nhân dân không ngừng được nâng cao; khối đại đoàn kết dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng, độc lập, chủ quyền được giữ vũng; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ to lớn, vai trò và vị thế cao như ngày nay. Từ một nước nhược tiểu, nghèo đói, ngày nay Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, nâng cao, nhiều thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế không ngừng rộng mở, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư được tăng cường. Việt Nam đã tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế và thiết chế hợp tác kinh tế đa phương, có vai trò, tiếng nói quan trọng trong khu vực và trên thế giới".

77 năm qua, học tập và làm theo lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc Lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước đạt được nhiều thành tựu to lớn, thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc của toàn dân. Công cuộc xây dựng và phát triển đất nước tiến lên CNXH vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức phía trước, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chúng ta vững tin đất nước sẽ vượt qua thách thức để tiếp tục thực hiện thành công những mục tiêu mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra, thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nguồn CL&XH: https://conglyxahoi.net.vn/thoi-su/tuyen-ngon-doc-lap-cua-chu-tich-ho-chi-minh-ngon-co-hieu-trieu-suc-manh-yeu-nuoc-cua-toan-the-dan-toc-viet-nam-166010.html