Vai trò của Phật giáo đối với Tổng hạnh phúc quốc gia

Thành tựu được Tổng hạnh phúc quốc gia là niềm mong ước củatất cả người dân trong một quốc gia. Mọi công dân ở Bhutan cần nên nỗ lực để cóthể trở nên văn minh, có tri thức và được giáo dục tốt cả về những căn nguyênbên trong, những điều kiện khách quan bên ngoài và những ảnh hưởng vào hạnhphúc thông qua các phương pháp mang tính hệ thống và thực tiễn.

Bhutan, đất nước hạnh phúc nhất thế giới - Ảnh minh họa

Để đạt được toàn giác và hạnh phúc rốt ráo, Phật giáo yêucầu phải thực hiện vô số phương tiện thiện xảo. Chính điều đó khiến cho mụctiêu trở nên khó khăn hơn. Đồng thời nó cũng giải thích tại sao Tổng hạnh phúcquốc gia là điều không thể đạt được trừ khi triết lý Phật giáo được mỗi ngươìdân Bhutan tiếp thu và thực hiện một cách đầy đủ và hiệu quả. Nuôi dưỡng hạnhphúc là mục tiêu duy nhất của triết lý và pháp hành Phật giáo. Hạnh phúccó thể đạt được ở phương diện cá nhân hay tập thể thông qua nhiều con đường vàphương thức được quy định trong giáo pháp. Hạnh phúc là một phẩm chất của tâm,nó xuất phát từ trạng thái tích cực, bao gồm những suy nghĩ không bao giờ làm tổnthương người khác, mong muốn giúp đỡ và hỗ trợ những người xung quanh, cảm thâýhài lòng, thỏa mãn với cuộc sống của chính mình.

Muốn đạt được hạnh phúc, ta cần chú ý đến việc phát triểntâm thức, làm cho tâm trở nên sáng suốt, thông tuệ và văn minh hơn. Muốn vậy,ta phải nỗ lực thực hành theo các triết lý liên quan đến lời dạy của Đức Phật.Ngoài ra, hạnh phúc có được nhờ khả năng nhận diện những suy nghĩ và hành độngtrong cuộc sống hàng ngày, cũng như những nhân, duyên có tác động, ảnh hưởngsâu sắc đến những suy nghĩ và hành động ấy. Bất kỳ ai khát khao, mong muốn hạnhphúc cũng nên nhìn thấy sự tương quan giữa hạnh phúc và khổ đau, từ đó chuyểnhóa và thực hành một cách miên mật hơn.

Nhìn chung, hầu hết các triết gia, những vị thức giả vànhững bậc giác ngộ đều đồng ý rằng thành tựu được mục đích lớn lao và mục tiêutối hậu trong cuộc sống là đạt được hạnh phúc. Có hai loại hạnh phúc: hạnh phúctuyệt đối và hạnh phúc tương đối. Hạnh phúc tuyệt đối là trí tuệ của bậc toàngiác, ở đó sự rỗng lặng và lòng từ bi luôn tồn tại song song như hai đức tínhkhông thể tách rời, trường tồn và vĩnh cửu. Trái lại, hạnh phúc tương đối đượcđịnh nghĩa như một trạng thái có được từ việc không gây hại, giúp đỡ người khácvà cảm thấy hài lòng, thỏa mãn. Tuy vậy, hạnh phúc tương đối thì vô thường, vàcó thể thay đổi phụ thuộc vào hoàn cảnh.

Hạnh phúc tương đối bao gồm hai phạm trù: hạnh phúc thuộcvề vật chất và hạnh phúc thuộc về tinh thần. Hạnh phúc thuộc về vật chất xuấthiện khi ta được đáp ứng đầy đủ những nhu cầu về thực phẩm, y phục và chỗ ở. Mộtkhi những nhu cầu căn bản này được đáp ứng thì phần còn lại sẽ phụ thuộc vào trạngthái tinh thần. Có thể nói đây là nguồn lực chính tạo ra hạnh phúc.

Con người có thể khởi lên hàng nghìn khuynh hướng và trạngthái tâm thức khác nhau. Một số trong đó có thể rất tích cực và hữu ích, nhữngkhía cạnh này của tâm cần phải được nuôi dưỡng và phát triển nhiều hơn. Ngược lại,những khuynh hướng khác của tâm mà chúng tiêu cực và bất thiện thì cần phải giảmthiểu, chuyển hóa và loại bỏ. Vì vậy, để tìm kiếm hạnh phúc chân thật thì bướcđầu tiên là nhận diện và hiểu rằng hạnh phúc không thể tự nhiên mà có được. Phảinỗ lực, cố gắng để làm chủ các cảm xúc tiêu cực và thấy được rằng chúng là bấtthiện, là ác nghiệp, làm tổn hại không những cho một cá nhân mà còn cho cả mộtxã hội, rộng hơn nữa là môi trường trên toàn thế giới. Để đạt được hạnh phúcchân thật, một người cần phải thay đổi cách nhìn và kiểm soát những suy nghĩhàng ngày và các trạng thái tâm thức phức tạp và đa dạng.

Nếu xem xét các việc này, chúng ta thấy rằng một trong nhữngđộng lực quan trọng nhất đối với việc phát triển Tổng hạnh phúc quốc gia cóliên quan mật thiết đến thái độ cố gắng không làm tổn hại người khác. Triết lýPhật giáo cũng cho rằng nếu một người khát khao, mong muốn có được hạnh phúcthì người đó phải tìm kiếm những nguyên nhân và điều kiện đúng đắn làm khơỉsinh hạnh phúc.

Mỗi một người dân Bhutan phải tự rèn luyện bản thân mìnhvà phát triển thái độ mong muốn giúp đỡ người khác. Việc gieo trồng hạt giốngthiện lành là hoạt động chính yếu của một vị Bồ-tát, những khía cạnh của tâm thứccũng là điều cần thiết đối với việc tạo ra hạnh phúc cho toàn xã hội. Nếu môĩcông dân đều gieo trồng và nuôi dưỡng hạt giống của sự cảm thông, yêu thươngthì cánh cửa trong tâm sẽ rộng mở theo hướng tỉnh thức hơn, và thông qua tiếntrình này, một người có thể làm việc một cách ý nghĩa hơn vì lợi ích của nhữngngười khác.

Ngài Drik Gyalpo Jigme Singye Wanchuck đã giải thíchnguyên lý của tổng hạnh phúc quốc gia liên quan đến khái niệm về hạnh phúc mà ĐứcPhật đã dạy. Vị vua của nước này đã nói rõ rằng việc đánh giá sự tiến bộ củaloài người bằng cách đo Tổng sản lượng quốc gia (GNP) là không thích đáng. Việcđo lường GNP có sự khiếm khuyết vì nó chỉ đề cập đến những hiện tượng hời hợtvà bề mặt ở nơi thế giới chúng ta. Đức Phật dạy rằng hướng ngoại hay ỷ lại nhữngyếu tố bên ngoài để có được hạnh phúc là nhầm lẫn và thiếu sót. Triết lý Phậtgiáo cho rằng việc dựa vào những yếu tố ngoại cảnh và xem chúng như là cội nguồncủa hạnh phúc thì chỉ dẫn đến khổ đau. Đức Phật khuyên các Phật tử nên chú ý đếnviệc phát triển sự an lạc bên trong tâm thức nếu họ mong muốn hạnh phúc thực sự.

Các loại cảm thọ

Theo triết lý Phật giáo, có ba loại cảm thọ: lạc thọ, khổthọ, và bất khổ bất lạc thọ. Lạc thọ tượng trưng cho hạnh phúc và những điều màtất cả chúng sanh mong muốn có được từ khi sinh ra cho đến khi chết đi. Tuynhiên, loại cảm thọ này cũng có mặt trái của nó. Khi tìm kiếm lạc thọ, chúng tathường bị vướng vào những việc trần tục, chính điều này tạo ra nghiệp xấu ácnhư tham, sân, si. Đây là ba cảm xúc tiêu cực hay còn gọi là ba độc, chúng lànhững căn bản phiền não liên quan đến luân hồi của chúng sanh và ngăn cản việcđạt được chân hạnh phúc.

Phương thức hành trì của Phật giáo đóng một vai trò quantrọng đối với việc loại bỏ ba cảm xúc tiêu cực này, chỉ ra con đường và nhữngphương tiện thiện xảo để đạt đến chân hạnh phúc. Tuy nhiên, cũng chính điều nàycho ta thấy rằng thông thường, để đạt được hạnh phúc trọn vẹn là vô cùng khó. Bơỉvì khó mà kiểm soát lòng tham đối với những thứ khả ái. Đó cũng chính là lý dotại sao triết lý Phật giáo xem con người như một chúng sanh tham đắm đang sốngtrong thế giới đầy dục vọng này.

Loại cảm thọ thứ hai của tâm là khổ thọ hay đau khổ và đượcxem là đối nghịch với hạnh phúc.

Cảm thọ được mô tả như là “bất khổ bất lạc thọ” thì khôngphải hạnh phúc cũng chẳng phải khổ đau nhưng có thể chuyển sang hai loại kiatùy thuộc vào hoàn cảnh, tình huống và hoạt động có liên quan trong một thời điểmnhất định.

Tạo ra Tổnghạnh phúc quốc gia thông qua quá trình chuyển hóa tâm thức

Nếu Bhutan muốn tạo ra Tổng hạnh phúc quốc gia thì đòi hỏicả lĩnh vực kinh tế và tinh thần phải phát triển song song với nhau. Nhưng tinhthần thì nhờ đâu mà mà đạt được? Muốn vậy, quốc gia này phải thực hiện quátrình chuyển hóa tâm thức thông qua hệ thống giáo dục hiện đại và sự tuyên truyềncủa các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình hay ra-đi-ô cũng nhưnhững phương cách truyền thống để đến được với tất cả mọi người dân. Nếu tất cảdân chúng đều được giáo dục thích hợp về việc phát triển tâm thức, họ sẽ trởnên tốt đẹp cả tinh thần, thể chất và hành động. Cũng do vậy mà họ sẽ ý thức đượctrách nhiệm của bản thân trong việc tạo ra một thế giới lý tưởng.

Phát triển chương trình giảng dạy, một hệ thống giáo dục sửdụng tài liệu dạy và học đa phương tiện, chính quy và không chính quy, tất cả đêùcó thể mở đường cho mục tiêu Tổng hạnh phúc quốc gia (GNH).

Lý luận cơ bản

Theo ý tôi, những giải pháp thông thường để tạo ra GNH nhưdân chúng tham gia vào việc đưa ra quyết định và có một chính quyền tiến bộ, việcphát triển công nghiệp như thủy điện và duy trì sự đa dạng sinh học, văn hóa vàmôi trường sẽ không mang đến hạnh phúc bền vững, bởi vì hạnh phúc như thế phụthuộc vào mong muốn của con người có được đáp ứng hay không. Ví dụ, nếu một ngươìvừa mới kéo điện vào ngôi nhà của mình, vị ấy sẽ thấy hạnh phúc giai đoạn đầu,nhưng sau đó, vị ấy sẽ không còn hạnh phúc ấy nữa nếu vị ấy không đủ tiền đểchi trả cho hóa đơn. Xã hội phụ thuộc vào người tiêu dùng chứa đựng rất nhiêùmâu thuẫn. Những người trong những xã hội ấy liệu có từng hài lòng bao giờchưa?

Dạy chongười khác hạnh phúc: điều này có thể không?

Bởi vì Đức Phật nói rằng “Giác ngộ rốt ráo là hạnh phúc tôíthượng” nên câu trả lời là có thể. Tuy nhiên, con người cần phải được dạy coitrọng tinh thần. Để đảm bảo thành công cho hành trình tìm kiếm sự giác ngộ thìcần một kế hoạch được xây dựng kỹ lưỡng và khả thi. Kế hoạch này được thiết lậpđể phù hợp với tất cả mọi người, từ những nhà quản lý cho đến những người quétdọn. Hãy nghĩ đến trường hợp của những người quét dọn, sự đóng góp của họ choxã hội sẽ to lớn hơn rất nhiều nếu họ lau sàn nhà với một tinh thần trách nhiệmcao và sự thích thú đối với nơi mà họ sống. Bởi vì họ sẽ tự hào về công việc củahọ. Ở cấp độ của những nhà quản lý thì hiệu quả sẽ lớn hơn rất nhiều, vì cácnhà quản lý chịu trách nhiệm cho rất nhiều người khác.

Tình trạng hiện nay ở Bhutan

Một trong những vấn đề chính hiện nay là khoảng cách giưãmức độ hiểu biết tâm linh và kiến thức thực sự của thế hệ trẻ. Khoảng cách nàyngày càng trở nên rộng hơn. Ví dụ, nhiều người trẻ ở Bhutan tham gia buổi pháphội do các Lama và các Rinpoche tổ chức, nhưng họ không am hiểu và quý trọng ýnghĩa của pháp hội này. Vì thế, ngay bây giờ là thời điểm thích hợp để truyềnbá giáo dục tâm linh, nếu không thì chỉ trong một vài năm tới hạnh phúc bêntrong có được từ sức mạnh tinh thần sẽ bị lu mờ và phai nhạt. May mắn thay, ởBhutan, Phật giáo và văn hóa có mối liên hệ hỗ tương khắn khít. Tuy nhiên, môĩngười phải biết quý trọng những giá trị tinh thần và những ứng dụng của chúngtrong cuộc sống hàng ngày. Nếu không, khát khao và chân lý không thể dung hoàvà mâu thuẫn với nhau, bởi vì gọi là phát triển xã hội tiên tiến, xã hội tìm kiếmhạnh phúc nhưng lại không thể tìm thấy.

Chính phủ không thể tạo ra hạnh phúc cho tất cả mọi ngươìdân bằng cách phát triển kinh tế. Cũng vậy, một người dân không thể có được hạnhphúc bền vững cho chính mình nếu không giác ngộ và không có hướng phát triểnđúng đắn. Nỗ lực và cố gắng là việc chung của cả một tập thể chứ không phải chỉcủa riêng ai.

Tuy nhiên, nỗ lực tập thể này nên được dẫn dắt bởi tâm thức,mà không phải bởi thân thể hay lời nói. Theo Phật giáo Đại thừa, hạnh phúc bắtnguồn từ lòng vị tha và từ bi. Loại tâm này không những là cội nguồn của hạnhphúc mà còn khiến người khác cảm nhận và trải nghiệm được hạnh phúc. Trong đó,tâm là vua, lời nói là quan đại thần và hành động là quan lính và tùy tùng. Tâmlà người tạo tác hay nguồn gốc cả tất cả mọi hành động. Như Đức Phật đã dạy:

“Tâm dẫn dầu các pháp

Tâm làm chủ tâm tạo

Nếu với tâm thanh tịnh

Nói lên hay hành động

Hạnh phúc sẽ theo sau

Như bóng không rời hình”.

Chỉ có thể đạt được GNH chính thức khi tất cả người dân đitheo con đường tịnh hóa tâm thức này. Khi tâm được kiểm soát, thì lời nói vàhành động cũng theo đó mà tiến bộ. Đây chính là hạnh phúc căn bản.

Sự ảnh hưởng của nghiệp

Không phải tất cả người dân Bhutan đều có thể hiểu đúngcăn nguyên vấn đề và đi đúng con đường, bởi vì họ được sinh ra và mang nghiệpkhác nhau. Trong một ý nghĩa nào đó thì sự đa dạng về nghiệp là một điều tốt bơỉvì hạnh phúc có thể đạt được bởi những cố gắng khác nhau. Ví dụ, những ngươìnông dân hạnh phúc khi vụ mùa bội thu bởi vì nghề nghiệp của họ là nông dân. Vìvậy, sự đóng góp của họ cho GNH có thể tăng lòng tự hào của họ vì có được mùamàng bội thu. Tương tự, các thương gia có thể đóng góp bằng cách tạo ra lợi nhuậnvà đầu tư khôn ngoan, và thường dân đóng góp bằng cách thể hiện lòng trungthành và sự cống hiến hết lòng cho công việc của họ; còn những người thực hànhtâm linh đóng góp bằng cách đạt được sự giác ngộ.

Theo Phật giáo, nghiệp đóng một vai trò cốt yếu trong việcđịnh hình số phận của con người. Ví dụ, vào thời Đức Phật, nạn đói hoành hành ởMagadha và có nhiều người chết đói. Một trong những đệ tử của Đức Phật, vì lòngtừ bi, đã dự định dùng thần thông để biến toàn bộ ngọn núi đất đá thành vàng,mong muốn người dân có thể dùng vàng để mua thực phẩm. Ông đã thỉnh ý Đức Phật vềviệc biến đá thành vàng này, nhưng Đức Phật từ chối việc này và giải thích rằngnếu đá hóa thành vàng thì nhiều người sẽ chết hơn bởi vì họ tranh giành nhau đểlấy vàng.

Tương tự, một vị vua của Tây Tạng vào thế kỷ VIII tên làMuni Tsenpo cảm thấy thương những người dân nghèo và ông muốn họ hạnh phúc bằngcách cho họ lượng tài sản ngang bằng nhau. Trong thời gian tại vị, ông đã bốthí đến ba lần như vậy, nhưng những người nghèo vẫn hoàn nghèo và người giàuthì vẫn cứ giàu. Cuối cùng, vị vua này phải thừa nhận một điều rằng nghiệp lựcrất mạnh, người ta phải chấp nhận nghiệp và kèm theo đó là sự nỗ lực của chínhhọ.

Thông điệp cốt yếu là rằng chính sự nỗ lực của tập thể mọilúc mọi nơi sẽ quyết định một hành động là tốt hay xấu.

Sự tương đồng giữa phát triển kinh tế và chánh niệm

Ngày nay, có nhiều người tin rằng tốc độ phát triển kinh tếhiện nay sẽ góp phần tạo ra và phát triển hạnh phúc. Điều này giống như khởi độngmột cỗ máy nhỏ và tăng tốc để đạt được những gì mong muốn. Mặt khác, một phươngpháp thiên về Phật giáo là sử dụng chánh niệm như một cái phanh để làm giảm tốcđộ của cỗ máy để nó không bị mất kiểm soát. Cả hai khía cạnh đều cần thiết vàkhông thể tách rời trong việc đóng góp cho sự thành tựu hạnh phúc. Có được mộtđời sống hạnh phúc là điểm đến, là mục tiêu của tất cả mọi người. Nhưng phươngthức nhanh hay chậm phải được áp dụng với mức ngang bằng nhau để đạt được nhữnggì mong muốn theo cách thành công nhất. Nếu một người hoàn toàn tin tưởng vàochiến lược phát triển nhanh hay chậm như là một phương tiện để đạt được hạnhphúc thì người ấy có nguy cơ thất bại và phá sản trong thời gian dài. Áp dụngtriết lý xây dựng sự đồng lòng một cách chậm rãi là phương pháp tốt hơn, khảthi hơn đối với việc phát triển những điều kiện bên ngoài như sự cải tiến vềphương thức.

Ba chướng ngại

Có ba chướng ngại làm cản trở con đường đạt lấy hạnhphúc, bao gồm những thứ bên trong, bên ngoài và những chướng ngại giấu mặt.

Những chướng ngại bên ngoài gồm hai loại: nạn đói và chiếntranh. Khi nạn đói hoành hành ở một khu vực nào đó thì nó được xem là thời đạiđói kém. Trong suốt giai đoạn này, con người không thể trải nghiệm hạnh phúc bơỉvì họ sống trong sự sợ hãi của đói khát và lấy cắp thực phẩm từ những ngươìkhác. Hạnh phúc duy nhất của họ nếu có trong thời điểm ấy là có được thức ăn vàđồ uống.

Chướng ngại bên ngoài thứ hai là chiến tranh hay mâu thuẫnxảy ra, và nó được biết đến như là thời đại của chiến tranh. Trường hợp này cũngvậy, nó khiến con người không thể có được hạnh phúc, bởi vì trong trường hợpnày người ta quan tâm hơn đến việc bị giết hay giết người khác vì nhiều nguyênnhân. Những lời dạy của Đức Phật về việc phi bạo lực có thể đóng một vai tròquan trọng trong việc tránh những loại bạo lực như thế và giúp phát triển sự cảmthông giữa mọi người bằng cách khiến họ nhận ra lợi ích to lớn của hòa bình vàhạnh phúc.

Chướng ngại bên trong của hạnh phúc liên quan đến khổ đaudo ốm đau và bệnh tật hay nỗi sợ chết gây ra. Những khổ đau này có thể xuất hiệntrước khi con người có cơ hội để hoàn thành quãng đời của họ. Theo Phật giáo,có đến 424 loại bệnh tật khác nhau có thể tấn công một người cả về thể chất lẫntinh thần. Khi một người gặp phải những chướng ngại này trên đường tìm kiếm hạnhphúc, người ta cho đó là thời đại của bệnh tật. Trong đạo Phật, một người có thểtìm cho mình nhiều giải pháp, bao gồm dùng tâm tỉnh giác, hay năng lực của thiềnđịnh để phục hồi những bệnh tật hay ốm đau này. Người ta nói rằng Atisha Dipamkara,một vị Thánh sống vào thế kỷ thứ X, bị đau tay, nhưng khi ông yêu cầu một trongnhững người đệ tử thân cận nhất của ông cầu an cho ông, thì cơn đau liền biến mất.

Kinh Bồ-tát dạy rằng:

Cầu mong thời đại bệnh tật, nạn đói, và chiến tranh đượctrở thành yên bình

Cầu mong thời đại hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc đượcphát triển”.

Chướng ngại giấu mặt cũng ngăn trở hạnh phúc, đó chính làtham lam, sân hận, và si mê. Trong triết lý Phật giáo, chúng còn được gọi làtam độc, và một khi chúng ẩn tàng trong tâm thì cơ hội để có được hạnh phúc rấtmong manh. Những cảm xúc này được gọi là tam độc bởi vì chúng có khả năng khiếncon người đau khổ cả trong đời này và đời sau. Trong 84.000 pháp được Đức Phậtdạy trong suốt 45 năm hoằng hóa, nhiều thông điệp của Ngài về cơ bản tập trungvào việc giúp đỡ nhân loại trừ bỏ tam độc ra khỏi tâm. Những lời dạy ấy đượcxem như giải pháp cho những chướng ngại giấu mặt.

Tứ Thánhđế đối với hạnh phúc tối thượng

Nếu một người thực sự mong muốn hạnh phúc, thì điều đâùtiên là phải nỗ lực ngăn ngừa hoặc loại bỏ những khổ đau nhanh nhất có thể.Cũng như Đức Phật khai ngộ cho năm vị đệ tử đầu tiên khi và chỉ khi họ đã lắngdịu và loại bỏ những khổ đau, lúc ấy hạnh phúc mới phát sinh. Dĩ nhiên hạnhphúc và khổ đau là hai khía cạnh trái ngược nhau và không thể tồn tại đồng thời.Khổ đau không thể trừ diệt nếu còn si mê. Đức Phật đã dạy nhiều bài kinh vềnguyên nhân của khổ và giải thích rằng nếu một người thấy được nguyên nhân củakhổ, thì ngay lúc ấy họ có thể cảm thấy thoải mái và hạnh phúc. Hơn thế nữa,lúc ấy, họ cảm thấy rất tích cực và khó có thể chờ việc thực hành con đường đưađến hạnh phúc và giải thoát.

Nguyên nhân chính của khổ đau là tham ái và chấp thủ, đólà thứ trói buộc tất cả mọi chúng sanh trong vòng luân hồi. Mỗi khi tham ái haykhát ái đưa đến chấp thủ còn tồn tại thì ta còn tiếp tục tái sanh và tạo ra nhữngđời sống mới. Lòng tham ái hay chấp thủ này thường liên quan đến nhu cầu về thúvui nhục dục, tìm kiếm sự hỷ lạc chỗ này chỗ kia, sự hài lòng hay thỏa mãn nhữngcảm xúc khác nhau thông qua các giác quan.

Vì vậy, quan trọng là chúng ta nhìn thấu được sự thật vềkhổ, và nhận ra nguyên nhân, con đường, sự đoạn diệt của nó bằng cách học tập,suy ngẫm và thiền tập. Khi một người khám phá ra những sự thật về khổ đau, ngươiâỳ́ sẽ hiểu được nguyên nhân, con đường đưa đến đoạn diệt và sự đoạn diệt củanó. Đó chính là Tứ Thánh đế, là giáo lý trọng yếu của Đức Phật có thể giúpchúng ta đạt được hạnh phúc tối thượng.

Nhữngnguyên nhân và điều kiện của Tổng hạnh phúc quốc gia

Triết lý Phật giáo giải thích rằng không có gì tự nhiên xuấthiện mà không có lý do, và khi các duyên đã hội đủ thì không gì có thể ngăn cảnđược quá trình trổ quả. Đạo Phật nhấn mạnh điều này nhằm khiến cho mọi người hiêủrõ và áp dụng vào đời sống hàng ngày. Đạo Phật cũng dạy rằng con đường đưa đếnhạnh phúc chính là giải thoát khỏi khổ đau, và điều này cũng bao gồm cả sự hiêủbiết sâu sắc về bản chất của sự hiện hữu.

Quan điểm của đạo Phật cho rằng có nhiều nhân duyên gâynên sự tái sinh trong vòng luân hồi bất tận. Nhưng con người có khả năng kếtthúc vòng trầm luân này thông qua việc hiểu rõ bản chất thật sự của khổ đau. Đôívới người Bhutan, một sự hiểu biết về mối quan hệ giữa nhân, duyên và quả là yêútố quyết định đối với những yêu cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân.

Bởi vì các duyên bên trong và các duyên bên ngoài hỗ tươngnhau nên mỗi người dân Bhutan nên được trang bị và giáo dục về chúng để có thểđóng góp vào hiệu quả to lớn của GNH. Điều này bao gồm cả những thứ mà chúng takhông thể tự làm cũng như những thứ mà chúng ta có thể làm để giúp đỡ và hỗ trợnhững người khác. Mỗi người nên được dạy và làm mới từng giây từng phút về sưị́ch lợi của hành động và việc làm được đặt trong yêu cầu của nhân và duyên. Mặcdù có vô số nguyên nhân bên trong nhưng chúng ta có thể nói cô đọng lại thànhba nguyên nhân căn bản cho sự hiểu biết rõ ràng hơn:

(a) Thái độ bất hại (nguồn tự giải thoát hay hạnhphúc cá nhân)

(b) Thái độ giúp đỡ người khác (nguồn của tâm tỉnhgiác hay cội nguồn của hạnh phúc cho tất cả chúng sanh hữu tình)

(c) Sự mãn nguyện (nguồn của sự thỏa mãn hayhoan hỷ)

Nói chung, các duyên bên ngoài có thể là bất kỳ sự pháttriển hay chính sách nào được thiết lập bởi chính phủ, mà chúng đưa đến mộthoàn cảnh tốt hơn cho mọi người. Các duyên bên ngoài có thể tóm tắt thành 5 mụckhác nhau như được liệt kê bên dưới:

(a) Giáo dục (nguồn tri thức và trí tuệ)

(b) Chính quyền tốt (nguồn công bằng)

(c) Đẩy mạnh phát triển văn hóa (nguồn tâm linhhay tính đồng nhất)

(d) Tăng trưởng kinh tế (nguồn thịnh vượng hay hạnhphúc về vật chất)

(e) Bảo vệ môi trường (nguồn hòa hợp).

Phát triển thái độ bất hại nghĩa là chánh niệm và tỉnhgiác đối với chính mình. Nếu một người mê mờ đối với tự thân thì đó là mối nguycho cả bản thân và rộng hơn là xã hội, và hơn nữa gây tạo lỗi lầm có thể dẫn đếnsự bất mãn hay không hạnh phúc cho tự thân và mọi người xung quanh. Nguyên tắcbất hại bàng bạc trong Phật giáo Nguyên thủy, trong khi sự phát triển thái độgiúp đỡ người khác được hàm chứa trong Phật giáo Đại thừa. Tuy nhiên, phươngpháp thực tập để phát triển hạnh phúc được tìm thấy ở cả hai trường phái.

Ở phương Tây ngày nay hay thế giới hiện đại, sự phát triểnđã đạt đến điểm mà hàng ngàn sự lựa chọn và tiện nghi dễ dàng nằm ở trong tầmtay của con người. Nhưng bởi vì sự mê mờ không thấu hiểu bản chất nhân và duyêncủa hạnh phúc cho nên con người không thể thấy rõ được bản thân họ. Những xã hôịphát triển này được thuyết phục rằng chỉ tăng trưởng kinh tế và sự giàu cókhông thôi thì không bao giờ có thể mang lại hạnh phúc trọn vẹn, mà chỉ dẫn đếnsự không thỏa mãn và tiếp tục tham lam. Sự thành tựu về kinh tế được xem như làduyên từ bên ngoài của hạnh phúc, và đối với các triết gia và hàng trí thức nóchỉ được xem như là thứ yếu và phụ trợ. Chân hạnh phúc an trú trong tâm và đượctạo ra từ thái độ và hành động đúng đắn. Hạnh phúc không phải là một hiện tượngở bên ngoài.

NhưAcharya Aryadeva đã nói:

“Tấtcả các hiện tượng bên ngoài là ngẫu nhiên và duyên sinh. Hạnh phúc và hy vọng nằmở nơi thái độ và ước vọng đúng đắn”.

Hạnh phúc có thể được đo bằng sự bằng lòng của con người đôívới những gì mà họ có và những nguyên tắc bên trong họ chứ không phải ở số lượngvật chất mà họ tích góp được. Đối với một người Phật tử, hạnh phúc không thể đượcđo lường dựa vào những vật chất hay hàng hóa mà họ sở hữu, những thứ này chỉmang đến nhiều bất an hơn bởi vì phải quan tâm nhiều hơn để bảo vệ chúng. Tâm sẽtrở nên ô nhiễm bởi những mong muốn có thêm nhiều vật chất và của cải. Điều nàyxảy ra vì một người không ý thức được các căn nguyên bên trong của hạnh phúc.

Thực hiện theo nguyên tắc biết đủ không có nghĩa là conngười không thể trở thành giàu có hay không thể đáp ứng những nhu cầu cần thiếtcủa cuộc sống. Nếu ai đó có tâm biết đủ, họ sẽ trở nên khôn ngoan hơn trong việcsử dụng tài sản cho những việc ý nghĩa và sẽ biết trân quý những gì mà mình có,như thế hạnh phúc sẽ xuất hiện. Đối với những người chỉ dựa vào những duyên bênngoài để tìm kiếm hạnh phúc, họ sẽ tìm thấy loại hạnh phúc tạm bợ và phù phiếm.Một giải pháp Phật giáo đối với hạnh phúc bảo đảm rằng hạnh phúc đó sẽ bền vững.

Thái độ bất hại

Như đã đề cập ở trên, một trong ba nguyên nhân bên trongbao gồm cả thái độ không làm tổn hại người khác. Đó là cội nguồn của hạnh phúcvà giải thoát cá nhân. Đức tính này cần phải được học tập, rèn luyện và sau đóphát triển trong tâm vì nó hình thành hạnh phúc cơ bản. Ba cánh cửa thân, khẩu,ý nên được rèn luyện bởi vì những thứ có hại có thể xuất phát dễ dàng từba cánh cửa này. Khi chúng ta xem xét ai đó, chúng ta phải chú ý đến cả hai loạilà năng động và thụ động. Có người sẽ thắc mắc tại sao thái độ bất hại này lạicần thiết đối với những ai mong cầu hạnh phúc. Đó là bởi vì người Phật tử tin rằngmỗi chúng sanh đều có hai loại cảm thọ là đau đớn hay vui vẻ, tự thân mỗi ngươìcũng đều trải nghiệm những cảm giác như thế.

Điều cực kỳ quan trọng là thiết lập một xã hội không cósự gây hại và thoát khỏi nỗi sợ bị gây hại giống như cộng đồng Tăng Ni lý tưởng.Ở Bhutan, một cộng đồng không có bạo lực có thể xây dựng được, vì chúng ta làPhật tử và ưa chuộng hòa bình. Hơn nữa, Bhutan được trị vì bởi vị vua Bồ-tátsáng suốt, ngài Druk Gyalpo Jigme Singye Wangchuck đáng kính.

Người Phật tử tin rằng việc phá hủy môi trường sẽ dẫn đếnkhủng hoảng xã hội. Dựa trên những quan điểm này, đạo Phật đề ra nguyên tắckhông làm tổn hại người khác.

Theo Phật giáo, nguyên tắc bất hại cũng áp dụng cho nhiêùkhía cạnh của môi trường chẳng hạn như năm yếu tố đất, nước, lửa, gió và khôngkhí, cũng như núi, rừng, sông và hồ, tất cả những gì hỗ trợ trực tiếp hay giántiếp cho con người bằng cách nuôi dưỡng hay cung cấp các tài nguyên thiênnhiên. Những thứ này cũng đóng góp về kinh tế cho quốc gia bằng nhiều cách. ĐạoPhật tin rằng những thảm họa không mong muốn sẽ xảy ra trên thế giới nếu môitrường bị lơ là và tàn phá. Đó là lý do tại sao các Phật tử rất chú ý việc trânquý môi trường và cố gắng giảm thiểu mọi sự tổn hại đến chúng.

Nếu muốn hạnh phúc sinh khởi trong tâm của tất cả nhữngngười dân Bhutan, thì điều quan trọng nhất nên được xem xét là chuyển hóa tâm thứcđể phát triển thái độ không làm tổn thương tất cả những người mong cầu hạnhphúc. Các nhà lãnh đạo nên đặt mục tiêu và các chính sách cho cơ chế phát triểnliên quan đến thái độ không làm tổn hại người khác như đã được đề ra trong triếtlý Phật giáo.

Nếu không có những việc làm để những ý tưởng này trở thànhhiện thực thì hạnh phúc sẽ không thể đạt được; việc đạt được hạnh phúc không chỉdựa vào việc nói về hạnh phúc hay cầu nguyện hạnh phúc. Như Đức Phật đã dạy:

“Lấy bản thân mình làm ví dụ, (nếu mình sợ) khổ đau thìnên cố gắng không làm tổn hại người khác”.

Thái độ giúp đỡ người khác

Nguyên nhân thứ hai có thể góp phần vào việc có được hạnhphúc là phát triển thái độ giúp đỡ người khác. Điều này thực sự là một sự hiêủbiết cao cả nhất, là cội nguồn của hạnh phúc toàn cầu. Bản chất cốt yếu của lôíthực hành hay thái độ này là có một tấm lòng rộng lớn, giàu tình thương và nhậnra rằng tất cả chúng sanh đều cần được yêu thương và giúp đỡ. Đây là một trongnhững triết lý chính yếu của Phật giáo Đại thừa và quan điểm này đã tồn tạitrong nhiều thế kỷ ở Bhutan. Một người có thái độ như vậy thì được xem là một vịBồ-tát và nhanh chóng trở thành một người có lòng từ ái và thương yêu người.Yêu thương và quan tâm một cách bình đẳng, họ làm việc không ngừng nghỉ vìtrách nhiệm cao cả mà không khởi lên bất kỳ suy nghĩ nào không trong sáng và bấtminh.

GNH có thể được xây dựng bằng trí tuệ và thái độ này. Nêúnhững khía cạnh này được phát triển thì người dân Bhutan có thể hiểu được làmthế nào để đạt được hạnh phúc bởi vì đó là một khái niệm có thứ lớp. Người Phậttử nói rằng cuộc sống chỉ có một, và chúng ta có thể sống vì tất cả trong môíquan hệ tương thuộc. Vì vậy, thật quý giá khi làm việc cho những điều cao thượngchứ không phải cho riêng bản thân mình.

Để phát triển thái độ ưu việt này, đầu tiên nên suy nghĩ vềpháp hành và lời dạy của giáo pháp Đại thừa, và sau khi nhìn thấy những lợi íchcủa việc giúp đỡ người khác, hãy dấn thân vào con đường lý tưởng đã được đề rathông qua bốn phương pháp và sáu thành tựu trong quá trình thực hiện GNH.

Triết lý Phật giáo Đại thừa cũng cho rằng hạnh phúc có đượctừ sự giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, điều không thể thiếu là phải có những hướngdẫn đúng đắn cho việc thực hành các phương pháp và các chính sách tạo ra thái độgiúp đỡ người khác. Chỉ một số người có thể được giáo dục về việc phát triểnthái độ giúp đỡ người khác, và ngay trong nhóm người này, có rất ít người có thểnhận ra lợi ích này; và càng ít người hơn có thể thực hành sự hỗ trợ đạo đứcnày, điều mang lại sự khích lệ để giúp đỡ người khác.

Thái độ này cần nên có và cần được thực hành, đặc biệt đôívới những người làm chính sách và đưa ra các quyết định, khi điều này sẽ traocho họ thêm sức mạnh trong việc hướng dẫn quần chúng. Cần nên tổ chức nhữngchương trình mà chúng đem đến cho mỗi và mọi thành viên cơ hội học hỏi hoặctrong một nhóm hoặc xa hơn nữa là việc học của riêng họ thông qua người cố vấncó thẩm quyền và đáng tin cậy. Sau đó, tùy vào kiến thức và kinh nghiệm của họ,họ nên chia sẻ và truyền đạt kiến thức ấy cho những người có quan hệ gần gũi vơíhọ.

Sự hài lòng

Nguyên nhân thứ ba của hạnh phúc là sự hài lòng, cội nguồncủa việc nhận thức rõ và khả năng của hoan hỷ. Hạnh phúc có thể được đo lường bằngsự hài lòng và có chức năng như một giải pháp cho những cảm thọ tham, ganh tỵvà keo kiệt. Một người biết đủ sẽ hiểu rõ và hoan hỷ đối với sự giàu có và vậnmay của người khác khi biết rằng giàu có là kết quả của những nghiệp lành đơìtrước. Vì vậy, thể hiện sự hài lòng cũng bao gồm cả khía cạnh của trí tuệ, suynghĩ tốt về của cải và sở hữu của người khác mà không có sự tham lam đối vơíchúng. Một người không biết đủ thì chỉ biết làm tăng thêm nhu cầu của bản thânvà thường vô cùng khổ sở do vì luôn mongmuốn đạt được những thứ mình muốn, hết cái này đến cái khác mà không có điểm dừng.

Lại nữa, điều này trái ngược với hạnh phúc bởi vì nhữngsuy nghĩ trong thâm tâm luôn bị ô nhiễm bởi những ý định lừa gạt, dối trá haycó mưu đồ đạt lấy những thứ mà ta cảm thấy cần. Một người không biết đủ thìkhông thể hạnh phúc bởi vì họ sẽ luôn có cảm giác chưa bao giờ đủ. Họ cũng sẽkhông thể phát triển những phương cách tốt cho việc tạo ra của cải ở giai đoạnđầu, họ sẽ khổ đau ở giai đoạn giữa vì sợ gặp phải các chướng ngại mà chúng khiếnhọ mất khả năng đạt lấy những gì mong muốn, và họ sẽ đau khổ ở giai đoạn cuối bơỉvì sự lo lắng không cần thiết liên quan đến sự mất mát của cải. Tất cả những nôĩkhổ này xuất hiện vì thiếu sự bằng lòng. Sự bằng lòng giống như một đường thẳngcân bằng giữa nhu cầu và sự hài lòng.

Nhiều người hiểu nhầm khái niệm về sự hài lòng. Một ngươìbiết hài lòng không có nghĩa rằng họ sẽ từ bỏ mọi thứ và phủ nhận những nhu câùcơ bản để tồn tại. Biết hài lòng nghĩa là người ta có thể bằng lòng với bất cứthứ gì họ có và giảm thiểu những nhu cầu và mong muốn đối với quá nhiều thứ.

Nhiều người cảm thấy khó khăn với việc đo lường mức độgiàu có và của cải. Tuy nhiên, từ cái nhìn của Phật giáo, có thể đo lường đượcngười giàu bằng cách xem xét họ có thấy thỏa mãn hay không. Vào thế kỷ XII, cómột vị vua Trung Quốc muốn biết ai là người giàu nhất ở Tây Tạng vào thời bâýgiờ. Câu trả lời được đưa ra là nhà Du-già Milarepa là người giàu nhất. Điều đóhàm chỉ ý nghĩa rằng mặc dù về vật chất ông rất nghèo, nhưng về tinh thần thiồng cực kỳ giàu có và cảm thấy bằng lòng với bất cứ thứ gì mà ông tìm thấy trêncon đường tâm linh. Ông là người hạnh phúc nhất thời đại đó. Như Đức Phật đã dạy:“Sự thể hiện tốt nhất về giàu có là lòng biết đủ. Và giác ngộ là sự thể hiện tôíthượng đối với việc đo lường hạnh phúc”.

Khenpo Phuntsok Tashi
- Nhuận Ngọc dịch
(Nguồn: bhutanstudies.org.bt)

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn//nguyetsan/phatgiaovaxahoi/2019/07/27/5a70c9/