Vi phạm chế độ hôn nhân một vợ,một chồng, có thể bị xử lý hình sự

Một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng. Do đó pháp luật ngăn cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.

Người dân xã Vĩnh Tân (H.Vĩnh Cửu) tìm hiểu tài liệu về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tại buổi tuyên truyền do Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh (Sở Tư pháp) phối hợp với địa phương tổ chức (Ảnh minh họa). Ảnh: Đ.Phú

Người dân xã Vĩnh Tân (H.Vĩnh Cửu) tìm hiểu tài liệu về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tại buổi tuyên truyền do Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh (Sở Tư pháp) phối hợp với địa phương tổ chức (Ảnh minh họa). Ảnh: Đ.Phú

Để xử lý hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng, Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) chế tài bằng các mức hình phạt: cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm.

* Cấm người đã có gia đình chung sống như vợ chồng với người khác

Ông Q.K. và bà H.H. (cùng quê tỉnh Tiền Giang) kết hôn được 10 năm thì lục đục. Năm 2012, ông K. rời quê về H.Định Quán làm ăn thì gặp bà T.T. và 2 người chung sống như vợ chồng. Ông K. hỏi: “Như vậy tôi có vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 hay không?”.

Còn bà K.L. (tạm trú tại P.Phước Tân, TP.Biên Hòa) trình bày, bà lấy chồng tên là V.U. ở quê (tỉnh Hậu Giang) và khi lấy nhau có đăng ký kết hôn. Vì chồng không quan tâm tới bà, nhậu nhẹt, bạo hành nên từ năm 2016 bà bỏ quê để về P.Phước Tân làm công nhân. Trong quá trình ở đây, bà quen và sống chung với ông V.E. và ông E. cũng đã có vợ ở quê (tỉnh Bắc Giang) nhưng chưa ly hôn. “Vậy tôi và ông E. có vi phạm chế độ một vợ, một chồng không?” - bà K.L. hỏi.

Luật gia Vòng Khiềng, Giám đốc Trung tâm Tư vấn pháp luật (Hội Luật gia tỉnh) cho hay, do ông Q.K. và bà K.L. chưa ly hôn với chồng và vợ cũ nên theo quy định của pháp luật quan hệ hôn nhân giữa ông Q.K. với bà H.H. và bà K.L. với ông E. là hôn nhân bất hợp pháp. Do đó, việc chung sống như vợ chồng của các ông, bà là vi phạm điều cấm của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

“Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ngăn cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ. Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng tùy theo tính chất, mức độ, hậu quả sẽ bị xử phạt hành chính hay hình sự” - luật gia Vòng Khiềng nói.

Cũng theo luật gia Vòng Khiềng, Điều 48, Nghị định 110/2013/ NĐ-CP ngày 24-9-2013 của Chính phủ về việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp hợp tác xã quy định, người nào đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác; chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ bị xử phạt hành chính từ 1-3 triệu đồng.

* Hiểu đúng về chung sống như vợ chồng

Ông Nguyễn Minh, trợ giúp viên Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh (Sở Tư pháp) cho biết, chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó…

Tại Điều 182, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định 2 mức độ vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng. Mức 1, người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm: làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Mức 2, phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm: làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; đã có quyết định của tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.

Đoàn Phú

Nguồn Đồng Nai: http://www.baodongnai.com.vn/phapluat/202007/vi-pham-che-do-hon-nhan-mot-vomot-chong-co-the-bi-xu-ly-hinh-su-3012351/