Vị trí chiến lược quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Khẳng định vị trí chiến lược quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao giá trị sản phẩm, đảm bảo ổn định đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp là một trong những nội dung thảo luận quan trọng tại Đại hội XIII của Đảng.

PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA GẮN VỚI XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Bày tỏ sự nhất trí cao với dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Tham luận tại Đại hội, đồng chí Nguyễn Xuân Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn cho biết, trong quá trình xây dựng dự thảo báo cáo chính trị, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chủ động, tích cực tham gia đóng góp ý kiến, nhất là đối với các nội dung về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Đồng chí Nguyễn Xuân Cường cho biết, bài học kinh nghiệm lớn, sâu sắc đúc rút cho toàn ngành nông nghiệp để có được thành tựu trên là sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo rất cụ thể của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự giúp đỡ, hỗ trợ của cả hệ thống chính trị; lựa chọn những giải pháp đột phá để chỉ đạo quyết liệt như: Mở cửa thị trường, áp dụng quy trình sản xuất tốt, an toàn, chất lượng; tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư của xã hội, doanh nghiệp; khơi dậy niềm tin và khích lệ tinh thần đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp toàn xã hội; thường xuyên quan tâm đời sống người dân, quán triệt tinh thần “phát triển bao trùm, không ai bị bỏ lại phía sau”.

Theo đồng chí Nguyễn Xuân Cường, năm năm tới, triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trong bối cảnh nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; chiến tranh thương mại giữa các nền kinh tế lớn. Đại dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, gây ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu, làm thay đổi sâu sắc trật tự, cấu trúc kinh tế và đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong khi, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là xu hướng chủ đạo, sẽ thúc đẩy các kênh đầu tư vào các sàn giao dịch nông sản; khoa học kỹ thuật, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ số phát triển mạnh mẽ cùng với cách mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ đem lại nhiều thay đổi trong tổ chức sản xuất; nhiều giống mới, vật tư mới giúp làm tăng năng suất, hiệu quả sản xuất, kinh doanh nông nghiệp. Ở trong nước, sự ổn định về chính trị, nền kinh tế tiếp tục phát triển với tốc độ cao đem lại môi trường thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Có thể khẳng định, Nông nghiệp vẫn là thế mạnh của đất nước ta, đang và sẽ tiếp tục tạo sinh kế bền vững, việc làm, thu nhập cho người dân và số đông lao động; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống và góp phần bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức, đó là sản xuất nông nghiệp nước ta vẫn đang ở quy mô hộ, nhỏ lẻ, phân tán và đây là nút thắt trong hội nhập quốc tế, giảm khả năng cạnh tranh, khó khăn trong kiểm soát về chất lượng, quy trình, giá thành; Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia chịu tổn thương lớn nhất của biến đổi khí hậu, xảy ra trên cả 7 vùng kinh tế - xã hội, trong đó những vùng trọng yếu về sản xuất nông nghiệp chịu tổn thương lớn nhất, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, vùng ven biển; dịch bệnh xuyên biên giới trên cây trồng, vật nuôi đang diễn biến phức tạp và khó lường; quá trình hội nhập sâu vào kinh tế thế giới với các hiệp định thương mại tự do mang đến nhiều cơ hội, nhưng cũng có nhiều quy định khắt khe từ các quốc gia, thậm chí sự cạnh tranh thương mại nông sản gay gắt.

Đồng chí Nguyễn Xuân Cường.

Trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 5 năm tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhất trí cao với dự thảo các văn kiện, các quan điểm, mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ chủ yếu phát triển nông nghiệp: “Phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Phát triển nông nghiệp xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu. Tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với quá trình đô thị hóa, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững” đây là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, xuyên suốt của ngành nông nghiệp. Mục tiêu chính là tiếp tục phát triển bền vững theo 3 trụ cột “kinh tế, xã hội và môi trường”, hướng tới thực hiện mục tiêu tổng quát “Phát triển nền nông nghiệp thông minh, hội nhập quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; nông thôn mới phồn vinh và văn minh, nông dân giàu có” và mục tiêu cụ thể đến năm 2025 là: (1) Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành 2,5 - 3,0%/năm; (2) Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 48 - 50 tỷ USD; (3) Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới 80%; (4) Thu nhập bình quân đầu người của dân cư nông thôn gấp 1,5 lần năm 2020; (5) Tỷ lệ che phủ rừng duy trì ở mức 42%, tăng cường chất lượng rừng.

Trước bối cảnh và yêu cầu mới với các thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; để thực hiện có hiệu quả mục tiêu trên, thời gian tới rất cần sự chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế, các tổ chức chính trị - xã hội từ trung ương đến địa phương nhằm giải quyết một cách đồng bộ, tổng thể các nhiệm vụ, giải pháp, trong đó chú trọng thực hiện tốt các nhóm nhiệm vụ, giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức về “Phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế” đến các cấp, ngành, địa phương và người dân; thay đổi nhận thức và cách tiếp cận về sản xuất nông nghiệp hàng hóa trong điều kiện hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu.

Thứ hai, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp cơ cấu lại ngành; trong đó tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp hàng hóa và xây dựng nông thôn mới, nhất là cơ chế, chính sách về đất đai, tín dụng, đầu tư, bảo hiểm, hợp tác công tư. Hoàn thiện chính sách đất đai theo hướng quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, bảo vệ quyền lợi của nông dân; thúc đẩy tích tụ, tập trung đất đai trên cơ sở hình thành thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp để mở rộng sản xuất hàng hóa có khả năng cạnh tranh cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Thứ ba, thông tin, dự báo tình hình thị trường, tranh thủ lợi thế các Hiệp định thương mại tự do và các cam kết quốc tế để ổn định, giữ vững các thị trường truyền thống, quy mô lớn, phát triển thị trường mới. Định hướng tổ chức sản xuất, tiêu thụ, có chiến lược đàm phán mở cửa thị trường, phát triển thị trường đối với các sản phẩm chủ lực, có tiềm năng, đi đôi với đẩy mạnh Chương trình “Đưa hàng hóa từ nông thôn vào thành thị”. Xây dựng thương hiệu nông sản Việt Nam chất lượng cao, an toàn thực phẩm, thân thiện với môi trường.

Thứ tư, phát triển công nghiệp chế biến và cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao, thông minh tăng tỷ trọng chế biến sâu để giảm chi phí, nâng cao giá trị sản phẩm. Phát triển các cụm liên kết sản xuất gắn với vùng nguyên liệu, các hình thức hợp tác liên kết sản xuất, chế biến kết nối với hệ thống tiêu thụ trong nước và quốc tế.

Thứ năm, nâng cao trình độ nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ, tập trung giải quyết các khâu then chốt, ứng dụng nhanh thành quả cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ cao để tạo tăng trưởng đột phá. Đồng thời, nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho nông dân, chuyển dịch đồng bộ lao động nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ với những điều kiện an sinh xã hội tốt hơn.

Thứ sáu, đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả gắn với quá trình “chuyển đổi số, kinh tế số” trong lĩnh vực nông nghiệp; hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp, đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu.

Thứ bảy, đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong nông thôn. Xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện, bền vững gắn với đô thị hóa. Nâng cao nhanh đời sống vật chất, tinh thần người dân nông thôn theo hướng nông dân giàu có, văn minh và bảo đảm môi trường sinh thái.

Thứ tám, huy động nguồn lực, đầu tư hạ tầng đồng bộ cho nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, bền vững, đảm bảo khả năng chống chịu trước rủi ro thiên tai và biến đổi khí hậu ngày một nghiêm trọng. Tiếp tục triển khai hiệu quả công tác bảo vệ rừng, nhất là rừng tự nhiên, rừng đầu nguồn; triển khai phong trào trồng mới 1 tỷ cây xanh góp phần bảo vệ môi trường, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.

NÔNG NGHIỆP NGÀY CÀNG GIỮ VỊ TRÍ QUAN TRỌNG TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

Tại ngày làm việc chính thức thứ hai của Đại hội XIII, bày tỏ sự đồng tình, nhất trí cao với các văn kiện trình tại Đại hội, đại biểu Dương Văn Thái, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh Bắc Giang nêu rõ sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề phát triển nông nghiệp qua tham luận “Phát triển nông nghiệp đa dạng tỉnh Bắc Giang dựa trên điều kiện đặc thù vùng trung du-miền núi.”

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Trung ương 7 khóa X và Nghị quyết Đại hội XI, XII của Đảng tiếp tục khẳng định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội bền vững.

Những năm gần đây, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành tập trung, quyết liệt, sáng tạo của Chính phủ, sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và nhân dân cả nước, ngành Nông nghiệp tiếp tục phát triển và thu được những kết quả ấn tượng. Nông nghiệp phát triển đã góp phần quan trọng hiện thực hóa chủ trương của Đảng về xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, bộ mặt nông thôn Việt Nam có nhiều đổi mới.

Đồng chí Dương Văn Thái.

Theo đồng chí Dương Văn Thái, nông nghiệp ngày càng giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; góp phần giữ vững ổn định chính trị, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.

Chia sẻ ba bài học kinh nghiệm tại địa phương trong phát triển, sản xuất nông nghiệp, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang khẳng định, nông nghiệp ngày càng giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cho biết, cần làm tốt công tác quy hoạch phát triển các vùng sản xuất và định hướng phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên cơ sở phát huy lợi thế của từng vùng sinh thái (có đặc điểm địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng khác nhau) để xây dựng các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, chất lượng.

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức sản xuất nông nghiệp không ngừng đổi mới tư duy, chuyển đổi từ sản xuất truyền thống, thủ công, nhỏ lẻ sang phát triển các mô hình sản xuất hàng hóa chuyên canh, tập trung, quy mô lớn, đẩy mạnh cơ giới hóa, ứng dụng khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hướng tới thị trường toàn cầu.

Việc ứng dụng khoa học công nghệ và thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm giải pháp trung tâm, tạo đột phá tăng năng suất, chất lượng; làm tốt công tác xây dựng thương hiệu sản phẩm; phát triển các chuỗi liên kết giá trị, phát triển thị trường để nâng cao giá trị, khả năng cạnh tranh, đảm bảo ổn định đầu ra cho các sản phẩm nông sản.

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Giang nhiệm kỳ 2020-2025 xác định tập trung phát triển toàn diện trên cả ba khu vực kinh tế: Công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, trong đó nông nghiệp giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là nền tảng đảm bảo cho phát triển kinh tế-xã hội, ổn định đời sống nhân dân.

Để đạt được các nhiệm vụ đề ra, đồng chí Dương Văn Thái nêu rõ việc tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ, vận động phát triển kinh tế nông nghiệp của địa phương từng bước hiện đại, bền vững. Bắc Giang tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp; phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; các mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, sản xuất nông nghiệp sạch theo hướng hữu cơ, gắn với phát triển các chuỗi liên kết giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.

Khai thác hiệu quả thế mạnh về điều kiện địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng của từng khu vực, địa bàn, Bắc Giang sẽ quy hoạch, phát triển các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh; xây dựng vùng cây ăn quả của tỉnh thành vùng cây ăn quả trọng điểm quốc gia.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp, trọng tâm, kịp thời đề ra các chủ trương, định hướng, ban hành cơ chế, chính sách phù hợp với thực tiễn; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, chế biến và thu hút doanh nghiệp tham gia vào chuỗi liên kết sản xuất... Bắc Giang tiếp tục ưu tiên phát triển các sản phẩm chủ lực, đặc trưng của địa phương, đặc biệt các thế mạnh về cây ăn quả, chăn nuôi lợn, gà, trồng rừng kinh tế.

Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào sản xuất tạo bước phát triển đột phá; xây dựng thương hiệu, nhãn mác, bao bì sản phẩm, gắn với mở rộng thị trường tiêu thụ ở trong nước và xuất khẩu; đồng thời gắn phát triển sản xuất nông nghiệp với xây dựng nông mới, phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, tạo giá trị gia tăng, thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững.

Để hướng đến xây dựng nền nông nghiệp hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển, đại biểu Dương Văn Thái đề nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương xem xét, sửa Luật Đất đai theo hướng tích tụ, tập trung đất đai với quy mô lớn phù hợp với thực tiễn phát triển nông nghiệp hàng hóa hiện nay; tăng cường đàm phán thương mại để mở rộng thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông sản.

TỔ CHỨC KẾT NỐI NÔNG NGHIỆP VỚI CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU

Thảo luận về nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, đại biểu Trần Đức Quận, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh Lâm Đồng trình bày tham luận “Tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường xuất khẩu và chuỗi giá trị toàn cầu của tỉnh Lâm Đồng.”

Theo đó, nông nghiệp là lĩnh vực nhiều lợi thế, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, do đó, trong những năm qua, Lâm Đồng đẩy mạnh chiến lược “kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến và xuất khẩu” nhằm phát triển bền vững và hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Xác định nông nghiệp là ngành kinh tế trọng yếu, Bí thư Tỉnh ủy Lâm Đồng cho biết, những năm qua, ngành Nông nghiệp địa phương có bước phát triển vượt bậc về quy mô, năng suất, giá trị, thu nhập trên một đơn vị diện tích và cả nguồn nhân lực.

Lâm Đồng hiện là một trong những địa phương đi đầu cả nước về nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp thông minh và lực lượng sản xuất trong nông nghiệp phát triển mạnh với mô hình “doanh nghiệp là nòng cốt, ứng dụng khoa học công nghệ là điều kiện tiên quyết; xây dựng chuỗi liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để phát triển bền vững; xây dựng thương hiệu để bảo hộ quyền lợi người sản xuất và tạo niềm tin cho người tiêu dùng; nông dân đóng vai trò chủ thể”. Hoạt động nghiên cứu, chuyển giao khoa học kỹ thuật tiếp tục được Lâm Đồng ưu tiên quan tâm hàng đầu tạo điều kiện cho các đơn vị nghiên cứu và doanh nghiệp tổ chức thực hiện.

Đồng chí Trần Đức Quận.

Việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp đã làm thay đổi tư duy, nâng cao trình độ sản xuất của người nông dân kể cả ở vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đã xuất hiện “nông dân thế hệ mới” dám nghĩ dám làm, mạnh dạn ứng dụng khoa học công nghệ, bỏ vốn đầu tư, chủ động khai thác thị trường, liên kết sản xuất tạo ra chuỗi giá trị tham gia có hiệu quả vào thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Phát huy vai trò nòng cốt của doanh nghiệp trong phát triển chuỗi liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, tổ hợp tác trong nông nghiệp, Lâm Đồng phát triển vùng nguyên liệu có chất lượng đồng đều, ổn định phục vụ cho công nghiệp chế biến, xuất khẩu.

Toàn tỉnh hiện có khoảng 165 chuỗi với sự tham gia của 197 doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở và gần 17.000 hộ nông dân, giá trị sản xuất thông qua chuỗi chiếm khoảng 20% tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp.

Đến nay, Lâm Đồng đã xây dựng một nền nông nghiệp với trình độ sản xuất khá cao, có thương hiệu, năng suất, chất lượng tốt. Đây sẽ là tiền đề quan trọng để nâng tầm ngành nông nghiệp của tỉnh, đáp ứng yêu cầu hội nhập và tham gia tích cực vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Trong giai đoạn tới, Lâm Đồng tập trung triển khai kiểm soát phát triển chất lượng nông sản và nông sản chế biến; lấy thị trường làm trọng tâm để tổ chức sản xuất, thiết kế và phát triển sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trong nước và thế giới; tiếp tục quảng bá và phát triển thương hiệu; gắn kết nông nghiệp, công nghiệp chế biến với xuất khẩu và chuỗi giá trị toàn cầu.

Với mục tiêu phát triển ngành Nông nghiệp theo hướng bền vững, toàn diện và hiện đại, xây dựng tỉnh Lâm Đồng thành trung tâm nghiên cứu, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh tầm quốc gia và quốc tế, Bí thư Tỉnh ủy Trần Đức Quận cho biết, Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng xác định, phát triển lĩnh vực nông nghiệp là một trong 4 khâu đột phá, trong đó tập trung tháo gỡ những vướng mắc trong quan hệ sản xuất, mở đường cho sản xuất phát triển, đặc biệt, tạo sự hợp tác và liên kết sâu rộng trong sản xuất nông nghiệp; tập trung tổ chức lại các mô hình hợp tác phù hợp, hiệu quả để tạo sự liên kết từ sản xuất, chế biến đến thị trường tiêu thụ sản phẩm nhằm tạo ra động lực mới.

Thời gian tới, Lâm Đồng tiếp tục cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng tiếp cận đa ngành, bền vững, hiện đại có giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh cao; trên cơ sở phát huy tốt các nguồn lực về khí hậu, thổ nhưỡng, con người, kinh nghiệm trong phát triển những năm qua. Từ đó tỉnh xác định tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao, thông minh và hữu cơ trong điều kiện biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế.

Đổi mới quan hệ sản xuất để phát triển nông nghiệp bền vững, với mô hình “Doanh nghiệp là nòng cốt; kinh tế tập thể, hợp tác xã, tổ hợp tác là trung tâm; nông dân là chủ thể”. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, nhất là những thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 vào sản xuất nông nghiệp; mời gọi các nhà khoa học tham gia đánh giá các mô hình thực tiễn và định hướng chiến lược cho giai đoạn tiếp theo.

Địa phương quy hoạch và mở rộng các mô hình nông nghiệp công nghệ cao với tất cả các loại cây trồng, vật nuôi; xây dựng các vùng chuyên canh hàng hóa chất lượng cao, quy mô lớn đạt tiêu chuẩn phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Quy hoạch phát triển mạnh vùng trồng cây dược liệu và phát triển ngành công nghiệp chế biến dược phẩm, thực phẩm chức năng bằng nguyên liệu tại chỗ phù hợp với điều kiện từng vùng.

Lâm Đồng xác định gắn phát triển nông nghiệp công nghệ cao với chương trình xây dựng nông thôn mới. Đây là kinh nghiệm mà tỉnh Lâm Đồng triển khai rất hiệu quả thời gian qua, góp phần đáng kể trong nâng cao năng suất lao động, thu nhập cho người nông dân, làm thay đổi bộ mặt nông thôn và góp phần thực hiện thành công chương trình xây dựng nông thôn mới).

Trong đó, phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của người nông dân tự nguyện tham gia sáng lập các mô hình kinh tế tập thể trong tổ chức xây dựng nông thôn mới tạo hiệu quả nổi trội. Đặc biệt, xây dựng cảnh quan môi trường nông thôn bình yên, có bản sắc và đặc trưng của từng vùng, phát triển du lịch ở nông thôn và du lịch canh nông.

Lâm Đồng thúc đẩy phát triển dịch vụ logicstic nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới tham gia xuất khẩu, các dịch vụ trọn gói (đóng gói, lưu kho, thực hiện các thủ tục hải quan, vận chuyển, giao hàng...). Mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, xây dựng chiến lược xuất khẩu nông sản trong đó xác định từng loại thị trường, định hướng cho doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân chủ động đáp ứng về tiêu chuẩn, quy chuẩn các loại hàng hóa phục vụ xuất khẩu.

Tiếp tục phát triển thương hiệu nông sản với nhãn hiệu “Đà Lạt-Kết tinh kỳ diệu từ đất lành” trở thành thương hiệu mạnh của cả nước; đẩy mạnh hỗ trợ các doanh nghiệp quả bá thương hiệu, xây dựng và bảo hộ thương hiệu nông sản. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại và hợp tác với các kênh phân phối bán lẻ trong và ngoài nước bằng nhiều phương thức phù hợp để đưa nông sản Lâm Đồng tham gia vào các thị trường chiến lược./.

Thu Hằng - Minh Thế

Nguồn Tuyên Giáo: http://www.tuyengiao.vn/thoi-su/vi-tri-chien-luoc-quan-trong-cua-nong-nghiep-nong-dan-nong-thon-trong-su-nghiep-xay-dung-va-bao-ve-to-quoc-131881