Việt Nam tụt hạng năng lực cạnh tranh: Điều trái ngược là...

Lần lượt trên bảng xếp hạng của WEF và WB, Việt Nam đều bị tụt hạng năng lực cạnh tranh và môi trường kinh doanh.

GS.TS Đặng Đình Đào, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển (Đại học Kinh tế Quốc dân) chia sẻ với Đất Việt góc nhìn thẳng về điều trái ngược này.

PV: Trong hai bảng xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) và Ngân hàng Thế giới (WB), năng lực cạnh tranh và môi trường kinh doanh của Việt Nam đều tụt hạng.

Cụ thể, theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu (Global Competitiveness Report) thường niên 2018 được WEF công bố, dù điểm số tăng nhẹ nhưng Việt Nam bị tụt 3 bậc so với năm 2017 (xếp thứ 77/140) nước.

Tương tự, báo cáo Môi trường kinh doanh (Doing Business) 2019 với chủ đề Đào tạo để cải cách của WB cho thấy, trong 190 quốc gia được đánh giá, dù điểm tổng của Việt Nam có tăng lên (đạt 68,36 điểm trên 100) nhưng chỉ xếp thứ 69 trong chỉ số thuận lợi của môi trường kinh doanh, tụt một bậc so với năm ngoái.

Ông nghĩ sao về chuyện này?

GS.TS Đặng Đình Đào: Tôi không bất ngờ trước thông tin này. Nếu đặt trong bối cảnh kinh tế thế giới nói chung thì kinh tế Việt Nam thời gian qua có nhiều khởi sắc và đạt được nhiều thành tựu như kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV đã đánh giá, ghi nhận. Nó cho thấy quyết tâm của Chính phủ trong việc triển khai các giải pháp để phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm qua.

Tuy nhiên, thống kê của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong 9 tháng, số doanh nghiệp thành lập mới tăng thấp 2,8% (cùng kỳ năm ngoái tăng 15,4%), số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động tăng 48,1% (cùng kỳ tăng 9,4%), số doanh nghiệp giải thể tăng 32,1% (cùng kỳ tăng 4,4%). Như vậy, cứ 100 doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động thì có tới 77 doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể. Đây là vấn đề cần phải quan tâm.

GS.TS Đặng Đình Đào

Bên cạnh số lượng doanh nghiệp giải thể rất lớn, 97% doanh nghiệp Việt Nam là nhỏ và vừa, trong đó khoảng 70% là siêu nhỏ (nhỏ li ti). Do có quá nhiều doanh nghiệp nhỏ bé nên làm ăn không được bài bản, không theo quy tắc thị trường, nhiều doanh nghiệp làm ăn theo kiểu chộp giật, mà sự ra đời của những công ty dịch vụ đòi nợ, cầm đồ là điển hình. Những hình thức doanh nghiệp đó không phục vụ cho sự phát triển kinh tế đất nước, trái lại nó còn tác động tiêu cực đến môi trường, đến sự phát triển chung.

Việt Nam đã có hơn 30 năm đổi mới nền kinh tế, nhiều hiệp định FTA Việt Nam tham gia ký kết đã triển khai, thế nhưng cung cách làm ăn của doanh nghiệp Việt đa phần vẫn chưa thay đổi. Chúng ta đã được tiếp cận luật chơi của thế giới, nhưng trên thực tế để doanh nghiệp bắt rễ được vào cuộc sống lại rất hạn chế. Đâu đó vẫn còn tư tưởng làm ăn không theo quy tắc thị trường, vẫn muốn chụp giật, lừa đảo.

Vừa qua, WB đã công bố Báo cáo điều tra về Chỉ số hoạt động logistics (LPI) năm 2018. Theo đó, Việt Nam được xếp hạng 39/160 nước, tăng 25 bậc so với năm 2016. Tất cả các chỉ số đánh giá LPI 2018 của Việt Nam đều tăng vượt bậc, trong đó có mức tăng cao nhất là năng lực chất lượng dịch vụ (xếp hạng 33, tăng 29 bậc), và khả năng theo dõi, truy xuất hàng hóa (xếp hạng 34, tăng 41 bậc).

Tôi cho rằng WB đã có phần hào phóng với Việt Nam khi xếp hạng như vậy. Thực ra, như việc theo dõi, truy xuất hàng hóa là chúng ta triển khai trong kế hoạch: đặt camera, giám sát hành trình hàng hóa... Trong khi đó, còn nhiều việc như triển khai thu phí không dừng cho đến nay chưa thực hiện được bao nhiêu, đa phần vẫn nằm trong kế hoạch, nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam chưa đi vào cuộc sống.

Vấn đề nổi cộm nhất, như nói ở trên, doanh nghiệp Việt đa phần nhỏ lẻ, thành lập mới 100 còn giải thể 77 nên nhiều khi tư tưởng làm ăn không có tầm nhìn xa, không theo chuẩn mực quốc tế, không theo quy tắc thị trường, cứ một mình một chợ, ăn đong, đánh quả là chính.

Về nguyên tắc, đã hội nhập vào sân chơi thế giới phải làm ăn đàng hoàng, hàng hóa phải đảm bảo chất lượng. Lô hàng sau phải tốt hơn lô hàng trước, chứ không phải lô hàng đầu tiên rất tốt, lô hàng thứ hai bắt đầu có vấn đề. Đây chính là tính chuyên nghiệp mà doanh nghiệp Việt phải điều chỉnh kịp thời.

Vì sao hàng hóa Việt Nam phong phú nhưng sức cạnh tranh kém? Vì hàng ngoại có giá cả phải chăng hơn, chất lượng tốt hơn. Ngay trong khuyến mại, không ít doanh nghiệp vẫn có tư tưởng lừa dối khách hàng, nâng giá lên rồi ghi khuyến mại, trong khi thực tế giá vẫn vậy hoặc có chăng giảm rất ít.

Những thay đổi của doanh nghiệp Việt là quá chậm so với tình hình kinh tế hiện nay. Tất cả cái đó làm cho các nhà nghiên cứu, tổ chức xếp hạng quốc tế khi xem xét môi trường kinh doanh và hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đánh tụt hạng.

PV: Nhìn vào những chỉ số cụ thể, theo báo cáo của WB, chỉ số nộp thuế và BHXH của Việt Nam đứng thứ 131, tụt đến 45 bậc. Đáng chú ý là thời gian nộp thuế năm 2018 vẫn bị đánh giá như năm 2017 với thời gian tiêu tốn cho việc nộp thuế lên tới 498 giờ/năm (trong đó thuế 351 giờ, BHXH 147 giờ).

Tương tự, trong xếp hạng của WEF, trong số 12 trụ cột đánh giá, Việt Nam chỉ đạt 33 điểm ở trụ cột năng lực sáng tạo.

Ông đánh giá, phân tích về vấn đề này như thế nào, thưa ông?

Nguồn Đất Việt: http://baodatviet.vn/kinh-te/thi-truong/viet-nam-tut-hang-nang-luc-canh-tranh-dieu-trai-nguoc-la-3369208/