Luật Hòa giải đối thoại tại Tòa án: Nhiều khó khăn cần tháo gỡ

Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án có hiệu lực thi hành từ ngày 1.1.2021, được Tòa án nhân dân (TAND) 2 cấp tỉnh triển khai đồng bộ. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, còn không ít khó khăn, vướng mắc cần được khắc phục.

Các hòa giải viên chụp ảnh lưu niệm cùng lãnh đạo TAND tỉnh.

Sau khi nhận được văn bản của TAND tối cao về việc chuẩn bị triển khai thi hành Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, TAND tỉnh đã thực hiện ngay các bước tổ chức, triển khai, thành lập 10 trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án và bổ nhiệm 36 hòa giải viên. Đội ngũ hòa giải viên được tuyển chọn là những người có nhiều kinh nghiệm trong công tác thực thi pháp luật.

Công tác tuyên truyền việc triển khai thi hành Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án về cơ bản thuận lợi, đa dạng bằng nhiều hình thức, tạo sự lan tỏa trong quần chúng nhân dân. Trong công tác tiếp công dân, thẩm phán, thư ký Tòa án hướng dẫn, giải thích cho người nộp đơn hiểu về Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, tạo điều kiện cho công dân tiếp cận và nắm được các lợi ích của việc lựa chọn phương thức hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Trong năm 2021, TAND hai cấp đã nhận 9.236 đơn đủ điều kiện tiến hành hòa giải, đối thoại; đã chuyển sang hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2.538 đơn. Thông qua việc hòa giải, đối thoại có 249 vụ, việc người khởi kiện rút đơn khởi kiện; 1.100 vụ, việc hòa giải thành (trong đó có 1.098 vụ, việc có yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành); tỷ lệ hòa giải, đối thoại thành đạt 43,34%.

Riêng trong 6 tháng đầu năm 2022, TAND hai cấp đã nhận 6.257 đơn khởi kiện/đơn yêu cầu, trong đó đơn đủ điều kiện chuyển sang hòa giải, đối thoại là 4.980 vụ. Số vụ đã giải quyết là 4.312 vụ; kết quả hòa giải thành 1.635 vụ, việc, chấm dứt việc hòa giải 312 vụ do đương sự rút đơn, hòa giải không thành chuyển sang thủ tục tố tụng 2.365 vụ, việc. Việc công nhận kết quả hòa giải, đối thoại tại Tòa án bảo đảm đúng quy định pháp luật, không có trường hợp nào bị khiếu nại, kiến nghị.

Các hòa giải viên tham gia góp ý kiến tại hội nghị sơ kết 1 năm thi hành Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Dù đạt nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên, đánh giá về công tác thi hành luật, TAND tỉnh cho rằng hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng đến kết quả hòa giải, đối thoại trong các vụ việc. Cụ thể, chưa có hướng dẫn thống nhất về mẫu quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại tại Tòa án; đa số việc khiếu kiện hành chính, người khởi kiển đồng ý đối thoại nhưng người bị kiện không đồng ý đối thoại nên không thực hiện được. Một số TAND cấp huyện có trụ sở xuống cấp, chật hẹp không có phòng làm việc riêng cho từng hòa giải viên.

Theo khoản 2 Điều 35 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, quyết định công nhận kết quả hòa giải thành được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Tuy nhiên, quy định về phạm vi điều chỉnh, bản án, quyết định được thi hành tại Điều 1, 2 Luật Thi hành án dân sự thì không có quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án thuộc phạm vi những bản án, quyết định được thi hành, nên việc giao nhận các quyết định công nhận hòa giải thành, đối thoại thành chưa được quy định cụ thể.

Bên cạnh đó, hiện nay chưa có cơ chế giám sát hoạt động của hòa giải viên như việc xử lý nếu xảy ra trường hợp hòa giải viên lợi dụng trong quá trình hòa giải, đối thoại để thực hiện những hành vi không đúng, vụ lợi. Ngoài ra, do không có con dấu riêng cho hòa giải viên, các văn bản do hòa giải viên gửi cho đương sự chỉ có chữ ký của hòa giải viên và đóng dấu treo của Tòa án nơi hòa giải viên làm việc, vì vậy tạo tâm lý không tin tưởng cho người dân khi nhận được thông báo của hòa giải viên.

Đại diện TAND huyện Bến Cầu cho biết thêm, về thành phần tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải thành theo điểm c khoản 1 Điều 28 thì phải có thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại hoặc thẩm phán khác do Chánh án Tòa án phân công (gọi chung là thẩm phán tham gia phiên họp). Khi hòa giải viên và các đương sự tổ chức hòa giải, đối thoại ngoài trụ sở (hoặc tại trụ sở nhưng ngoài giờ hành chính) thống nhất giải quyết tranh chấp nhưng nếu không có thẩm phán thì không lập được biên bản phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải.

Nhưng nếu mời các đương sự đến trụ sở trong ngày, giờ hành chính thì có thể xảy ra trường hợp một trong hai bên đương sự không đến, vì thế không lập được biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành theo đúng quy định nên gặp khó khăn. Nếu lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành mà không có thẩm phán thì liệu có vi phạm quy định dẫn đến hủy quyết định công nhận không?

Về các thủ tục tống đạt các thông báo, giấy mời của hòa giải viên và Tòa án chưa có quy định cụ thể xem thế nào là thông báo hợp lệ để chuyển sang thủ tục tố tụng theo khoản 3, Điều 40 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Ngoài ra, chưa có quy định về công tác lưu trữ, sắp xếp hồ sơ hòa giải, xử lý chuyển giao đơn khởi kiện như thế nào khi kết thúc hòa giải, đối tượng chuyển sang thụ lý vụ án.

Còn theo TAND huyện Tân Châu, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án là chế định mới nên đa số người dân chưa nắm rõ và hiểu hết ý nghĩa của luật; mặt khác, các bên muốn sự việc được giải quyết nhanh chóng, sớm đưa ra xét xử nên đa số không đồng ý hòa giải, đối thoại. Một số trường hợp người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện đã tư vấn cho các bên không đồng ý hòa giải, đối thoại nên khi người khởi kiện nộp đơn khởi kiện sẽ kèm theo đơn từ chối hòa giải.

Hòa giải viên tham gia góp ý kiến tại hội nghị sơ kết 1 năm thi hành Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Hay tại Điều 20 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định thời hạn hòa giải, đối thoại là 20 ngày kể từ ngày hòa giải viên được chỉ định; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn này được kéo dài không quá 30 ngày. Quy định thời hạn này là ngắn, không đủ để thực hiện hòa giải đối thoại theo quy trình được ban hành và các trình tự, thủ tục. Ngoài ra, thời hạn chuẩn bị ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành là 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo.

Vậy căn cứ nào xác thực được tài liệu kèm theo được thu thập trong quá trình hòa giải, đối thoại là chính xác. Trong khi điểm đ khoản 1 Điều 14 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định về quyền của hòa giải viên “không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của thông tin, tài liệu, chứng cứ do các bên cung cấp”. Điều này dễ tạo ra những sai sót làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích chính đáng của các bên đương sự. Hậu quả của việc này giải quyết như thế nào chưa được đề cập.

Để nâng cao hiệu quả công tác hòa giải, đối thoại trong thời gian tới, ngành Tòa án cần chú trọng đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án để người dân hiểu được những thuận lợi khi lựa chọn hòa giải, đối thoại trong giải quyết tranh chấp; kịp thời cung cấp cho các hòa giải viên những văn bản quy phạm pháp luật mới; tiếp tục áp dụng các quy định về tính linh hoạt của chế định hòa giải, đối thoại tại Tòa án như thực hiện hòa giải, đối thoại ngoài trụ sở Tòa án, ngoài giờ hành chính.

TAND hai cấp tỉnh kiến nghị TAND tối cao cần sớm ban hành bổ sung một số biểu mẫu còn thiếu, quy định về công tác lưu trữ hồ sơ cũng như giải đáp, hướng dẫn những vướng mắc các Tòa án gặp phải trong quá trình áp dụng luật; thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng cho hòa giải viên; bổ sung thư ký giúp việc cho hòa giải viên.

Thiên Di

Nguồn Tây Ninh: https://baotayninh.vn/luat-hoa-giai-doi-thoai-tai-toa-an-nhieu-kho-khan-can-thao-go-a147097.html